Sân Golf, truyền thông và chính quyền

Tháng Tám 23, 2009

Quyết định xóa sổ 10 sân golf vừa qua đã cho thấy sự tương tác hợp lý giữa chính quyền, truyền thông và lợi ích của người dân.

Hồi tháng 4, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu các bộ ngành rà soát lại việc quy hoạch sân golf, đồng thời đánh giá lại hiệu quả các sân golf đã được cấp phép đầu tư.

Tuần này, UBND thành phố Hà Nội quyết định xóa sổ 10 sân golf trong địa bàn thủ đô, bao gồm cả những dự án đình đám như Khu luyện tập thể thao và vui chơi giải trí Mễ Trì, Khu sinh thái và vui chơi giải trí Tuần Châu Hà Tây, Sân Temple Lake Golf & Resort Chương Mỹ, Khu sân golf – resort – vui chơi giải trí cao cấp Hồ Cầm Quỳ.

Như vậy, từ chỉ đạo của thủ tướng tới quyết định dừng đầu tư một loạt những sân golf của lãnh đạo Hà Nội chỉ trong vòng 4 tháng. Khoảng thời gian không dài, và chắc chắn để đưa ra được quyết định đó, trong suốt 4 tháng qua, chính quyền đã liên tục tham vấn các Bộ, ngành, các chuyên gia đặc biệt là từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Rất nhiều bộ phận đã đóng góp vài thành công của chính sách trên, một phần trong đó không thể không kể tới vai trò của truyền thông. Trong vụ việc với sân golf, truyền thông và chính quyền đã có sự tương tác hợp lý theo đúng những nguyên tắc, cách thức chuẩn mực của xã hội dân chủ.

Theo lý thuyết hiện đại, truyền thông có thể tác động tới kết cục chính trị theo 3 cách: sàng lọc, thiết lập kỷ luậtthu hút sự quan tâm chính trị.

Sàng lọc

Sàng lọc là quá trình truyền thống giúp soi rọi vào những góc khuất của xã hội, tấn công nhằm loại bỏ những chính khách hoặc chính sách chưa tốt. Trong vụ việc với sân golf, báo chí đã chỉ ra khá rõ ràng dự án sân golf nào chiếm quá nhiều đất công và ảnh hưởng tới những công trình khác.

Lấy sân golf Mễ Trì làm ví dụ, dự án này đã được báo chí “mổ xẻ” khi chiếm tới 26,8ha đất ngay gần Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Quyết định “nhồi nhét” một sân golf vào khu vực trung tâm của một thủ đô chật chội trong khi Hà Nội đang “thừa” sân golf là một bất hợp lý đã được các chuyên gia quy hoạch, kiến trúc sư lên tiếng phản biện công khai trên các phương tiện truyền thông.  

Những phản biện đó đóng vai trò “sàng lọc”, góp tiếng nói với chính quyền loại bỏ dự án Mễ Trì ra khỏi danh sách được đầu tư.

Thiết lập kỷ luật

Thiết lập kỷ luật là một vai trò quan trọng khác của truyền thông trong quá trình tác động tới quyết định chính trị. Lấy trường hợp sân golf làm ví dụ: các cơ quan truyền thông đã đồng loạt lên tiếng về hiện tượng chủ đầu tư xin đất làm sân golf nhưng thực chất để xây dựng trong đó những biệt thự, resort để bán hoặc cho thuê.

Dự án xây sân golf cuối cùng lại là dự án bất động sản “núp” dưới những mỹ từ rất kêu “khu đô thị sinh thái”. Hãy để ý những tên sân golf đã bị dừng đầu tư theo quyết định vừa rồi của lãnh đạo Hà Nội, chúng ta có thể thấy điều đó: Khu du lịch đô thị sinh thái và sân golf Phú Mãn (Cty XNK tổng hợp Hà Nội);  Khu đô thị du lịch sinh thái và sân golf  Long Biên (Cty CP Vincom);  Sân golf 36 lỗ kết hợp công viên cây xanh và khu du lịch Thanh Trì (Cty TNHH Sản xuất kinh doanh XNK Bình Minh Bitexco).

Ngoài ra, câu chuyện sân golf lấn chiếm đất nông nghiệp của nông dân, khiến không ít gia đình mất tư liệu sản xuất, phải sống vất vưởng bằng những nghề không phù hợp với sở trường đã được phản ánh nhiều và tới được “tai” những người có thẩm quyền.

Khi quyết định xem xét lại các dự án sân golf, lãnh đạo Hà Nội đã đề ra nguyên tắc chung “hạn chế tối đa việc sử dụng đất lúa”. Và trong các dự án bị xóa sổ vừa rồi, người ta thấy có tên những dự án dự tính sẽ “siêu lấn lúa” như Khu du lịch sinh thái và vui chơi giải trí Tuần Châu với 198,2 h, Temple Lake golf & resort với 97,51 ha “lấn lúa”.

 Loại bỏ những dân golf chiếm đất nông nghiệp để đầu cơ bất động sản là chính là quá trình “thiết lập kỷ luật”, quá trình ấy có tác động không nhỏ của giới truyền thông.

Thu hút sự quan tâm chính trị

 Câu chuyện sân golf nóng trên nhiều mặt báo đã đưa sân golf trở thành vấn đề trung tâm của những tranh luận chính trị, là thước đo để nhân dân nhìn nhận cách hành xử của chính quyền. Nhóm dân cư bị tổn thương bởi những dự án sân golf phải được chú ý và đưa vào chương trình chính trị.

 Một số bài báo còn đặt vấn đề quyết liệt khi cho rằng, quá nhiều sân golf xa xỉ là sự thể hiện ra bên ngoài khoảng cách giàu nghèo trên thực tế, tạo ra khoảng cách giàu nghèo, phân biệt đối xử trong tâm lý số đông quần chúng thu nhập thấp. Điều này bất lợi cho uy tín chính trị của chính quyền.

 Quyết định xóa sổ 10 sân golf vừa rồi cho thấy chính quyền đã có những phản ứng lại nhạy bén và hợp lý để giữ uy tín và chiếm lại tình cảm của người dân. Còn truyền thông đã đóng vai trò cung cấp thông tin, dẫn dắt vấn đề để chính quyền đi tới quyết định ấy. Sự tương tác hai chiều đó rất hợp lý trong một xã hội dân chủ, và truyền thông đã làm tốt vai trò giám sát của mình.

 Khánh Duy

Tập đoàn: “Săn hai thỏ, về tay không”

Tháng Tám 23, 2009

Các nhà bình luận đã nói nhiều tới những bất cập của mô hình mở rộng tập đoàn Việt Nam dưới góc độ kinh tế vĩ mô. Nhưng, hãy thử nhìn đổi góc nhìn sang vi mô để xem liệu chiến lược mở rộng ấy có hiệu quả hay không?

Bức tranh còn nhiều mảng tối

Báo cáo kết quả giám sát các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vừa được trình lên Quốc hội cho biết: hiệu quả sử dụng vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa tương xứng với quy mô, vị trí và vai trò của các thực thể đó trong nền kinh tế.

Tới 25% số đơn vị báo cáo có mức lợi nhuận âm hoặc dưới 5%, 47,2% số đơn vị báo cáo có mức lợi nhuận dưới 10%.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng làm ăn kém hiệu quả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Trong số đó, không thể không kể tới việc các thực thể nói trên đầu tư tràn lan sang các lĩnh vực “ăn xổi ở thì” khác như chứng khoán, bất động sản…

Có tất cả 47 tập đoàn, tổng công ty tham gia đầu tư vào lĩnh vực này với tổng số vốn đầu tư vào cuối năm 2006 lên tới 6 nghìn 434 tỷ đồng, cuối năm 2007 là 16 nghìn 190 tỷ đồng và cuối năm 2008 là 21 nghìn 164 tỷ đồng.

Kết quả là, càng đầu tư, hiệu quả càng không cao. Tính đến 31/12/2008, hầu hết các tập đoàn, tổng công ty đều không phát sinh lợi nhuận hoặc lỗ từ những khoản đầu tư vào chứng khoán và góp vốn quỹ đầu tư. Thực tế đó góp phần làm “ốm yếu” thêm thể trạng các tập đoàn.

Câu chuyện các tập đoàn đầu tư tràn lan không hiệu quả, làm phức tạp thêm bức tranh kinh tế vĩ mô và gây khó khăn phần nào cho nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế đã được đề cập quá nhiều và không còn gì mới nữa.

Bây giờ, hãy thử đặt một vấn đề theo hướng khác? Từ nội tại bản thân mỗi tập đoàn, tại sao họ lại có xu hướng mở rộng như vậy và làm như thế có mang lại hiệu quả hay không xét từ giác độ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Những phân tích dưới đây dựa trên giả định lãnh đạo các tập đoàn đưa ra quyết định trên cơ sở duy lý, nghĩ tới lợi ích của doanh nghiệp. Tuy trên thực tế, trong nhiều trường hợp không hoàn toàn như vậy. 

Mở rộng hay đi vào ngõ cụt

Al Ries, một nhà nghiên cứu về chiến lược công ty, đã từng có một ví von thú vị rằng công ty như cái tủ quần áo, một vài tuần sau khi sắp xếp lại ngăn nắp, nó lại rối beng lên. Hay nói cách khác, các tập đoàn thường có xu hướng thích mở rộng “lung tung” sang các mảng khác nhau.

Thập niên 80, 90 ở Mỹ có thể coi là thập niên mở rộng của các tập đoàn. Lịch sử thành bại của các tập đoàn trong giai đoạn này đã cho thấy nhiều bài học giá trị. Kết luận rút ra từ những phi vụ mở rộng đình đám trong giai đoạn ấy chốt lại ở câu: “Các tập đoàn đừng cố gắng ăn trọn cái bánh quá lớn so với miệng họ. Đừng nghĩ rằng cỏ xanh hơn khi nhìn từ bên kia hàng rào.”

Một ví dụ kinh điển vẫn được giảng dậy trong các trường kinh doanh là trường hợp của Xerox. Công ty này thời đó đang dẫn đầu thị trường về máy photocopy. Thế rồi, đầu thập niên 1990, Xerox quyết định đa dạng hóa bằng việc cung cấp thêm các dịch vụ tài chính dưới cái tên: “The Xerox Financial Machine”. Được hai năm, đến năm 1992, hệ thống tài chính này sụp đổ và Xerox gánh khoản lỗ 778 triệu đô-la.

Năm 1985, chủ tịch tập đoàn Chrysler tuyên bố về sự ra đời của một đế chế với 4 công ty thành viên với các loại hình kinh doanh riêng biệt: Chrysler Motor (chuyên về ôtô), Chrysler Aerospace (không gian), Chyrsler Financial (chuyên cung cấp dịch vụ tài chính) và Chrysler Technologies (chuyên về kỹ thuật). Cuối cùng, tất cả biến thành một trò hề, chủ tịch Lee Iacocca thời đó của tập đoàn xe hơi danh tiếng này rốt cục đã phải thừa nhận việc mở rộng là sai lầm lớn nhất đời ông.

Có thể tìm được vô số ví dụ như vậy trong lịch sử kinh doanh của các tập đoàn Mỹ. IBM mua Rorn năm 1984 rồi bán đi năm 1989. Coca-cola mua lại Columbia Pictures năm 1982 rồi bán đi năm 1989… Có thể nói rằng đa số hoạt động mở rộng dẫn các tập đoàn tới ngõ cụt.

Ít hơn là nhiều hơn

Các tập đoàn trên thế giới cũng có xu hướng mở rộng bởi những lý do của nó. Họ muốn tận dụng thương hiệu, khả năng vốn, khả năng sản xuất, khả năng marketing, tiềm năng khách hàng… Tóm lại họ có nhiều khả năng để có thể tạo ra nhiều lợi nhuận hơn ở những mảng kinh doanh khác. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng, những khả năng đó không phải lúc nào cũng mang lại sự thành công lâu dài cho doanh nghiệp.

Bài học từ những thập niên mở rộng trong quá khứ đã khiến cho các tập đoàn giờ đây tập trung hơn vào ngành kinh doanh chính. Cũng có những tập đoàn kinh doanh đa ngành nhưng các công ty con với tên thương hiệu riêng biệt và độc lập mạnh với công ty mẹ về mọi mặt.

Ngay cả khi chỉ mở rộng một dòng sản phẩm trong mặt hàng kinh doanh chính, doanh nghiệp cũng phải cân nhắc mọi nhẽ thiệt hơn. Chúng ta đều biết rằng khi tập đoàn Toyota mở rộng sang mảng xe hơi cao cấp, họ chọn một thương hiệu riêng biệt Lexus, độc lập về nhiều mặt với hãng mẹ. Honda cũng làm vậy với thương hiệu xe hơi cao cấp riêng biệt Acura.

Mở rộng hoàn toàn không phải trò chơi duy ý chí của những kẻ nghiệp dư, đó là sự toan tính đặc biệt cẩn trọng và khoa học của các chủ tịch tập đoàn. Mọi chiến lược mở rộng đều phải được tham mưu bởi các nhà tư vấn chiến lược chuyên nghiệp, dày dặn kinh nghiệm, những người luôn hiểu rằng: trong kinh doanh đôi khi nhiều hơn lại là ít hơn và ít hơn lại là nhiều hơn.

Các tập đoàn nổi tiếng thế giới đã phải trả giá đắt để học được bài học rằng Tập Trung là yếu tính của thành quả kinh tế và Mở Rộng cần được thực hiện theo một lộ trình đặc biệt. Còn những tập đoàn Việt Nam đang mở rộng với những động cơ và cách thức không theo logic thông thường (chúng tôi sẽ phân tích điều này ở một bài báo khác).

Các tập đoàn đó đã quên hay cố tình quên những bài học về sự Tập trung, bài học xương máu đã được Khổng Tử đúc kết từ 2500 năm trước: “Kẻ nào săn cùng một lúc hai con thỏ ắt sẽ trở về tay không.”

Khánh Duy

(*) Các ví dụ về Tập đoàn Mỹ lấy từ cuốn Focus của tác giả Al Ries

CNTB “có lỗi nhưng không có tội”

Tháng Bảy 30, 2009

 Nếu Adam Smith có sống lại để thanh minh cho CNTB trong giai đoạn này, có lẽ ông sẽ nói: “CNTB có lỗi nhưng không có tội…”

 Mất niềm tin vào CNTB

 Theo một điều tra mới nhất của công ty truyền thông Rasmussen Reports, chỉ có 53% người Mỹ trưởng thành tin rằng CNTB tốt hơn CNXH, 20% tin rằng CNXH tốt hơn và 27% không biết chắc chắn câu trả lời.

 Mới chỉ tháng 12 năm 2008, có đến 70% người Mỹ trưởng thành ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do, chỉ 15% tin rằng nền kinh tế do nhà nước quản lý tốt hơn và 15% không quyết định.

 Ngay trên đất Mỹ, quê hương của những tư tưởng tự do, mà chỉ có phân nửa dân cư ủng hộ CNTB. Hơn thế nữa, trong vòng chỉ có vài tháng, tỉ lệ ủng hộ CNTB lại sụt giảm khá mạnh. Đó là những con số bất ngờ. Bỏ qua những sai lầm có thể có trong quá trình điều tra, có một sự thực là cuộc khủng hoảng hiện nay đã làm cho niềm tin vào CNTB bị lung lay.

 Người dân Mỹ đang mệt mỏi vì khó khăn do khủng hoảng hay bực tức khi những đồng thuế của họ được đóng góp để cứu các nhà tư bản lớn? Có thể cả hai và có thể đó là những nguyên nhân khiến họ giảm niềm tin vào CNTB tự do, được coi là linh hồn đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ từ ngày lập quốc.

 Người dân Mỹ và người dân nhiều quốc gia khác đang mất niềm tin vào CNTB. May thay chưa thấy ai nói nó “đang giãy chết” nhưng không ít người nghi ngờ tính hợp lý trong sự tồn tại của nó. Những nghi ngờ đó cần được xem xét lại. Cuộc khủng hoảng hiện nay cũng như những cuộc khủng hoảng khác trong quá khứ là những biến động gây ra bởi những “lỗi” trong một thành phần của hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhưng toàn bộ hệ thống đó xét như một tổng thể có cơ sở hợp lý để tồn tại.

 Cuộc khủng hoảng của CNTB tài chính

 Đặc điểm cơ bản của CNTB là nó phải vận hành trên cơ sở giá trị. Muốn tồn tại và có lợi nhuận, nhà tư bản phải sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ có giá trị thực sự đối với số đông quần chúng. Vô giá trị có nghĩa là không trao đổi ra tiền và đồng nghĩa với việc nhà tư bản phá sản… Thực tế đó khiến họ buộc phải tạo ra giá trị có lợi cho cộng đồng. Từ thị trường hàng hoá, dịch vụ tới nhân lực, nơi nơi quy luật giá trị chi phối

 Adam Smith viết những dòng bất hủ: “Chính không phải do lòng tốt của người bán thịt, người sản xuất rượu bia hay người làm bánh mỳ mà chúng ta có được một bữa ăn ngon, mà do sự quan tâm của họ tới lợi ích riêng của họ.” Nhà tư bản có thể chỉ nghĩ tới lợi ích riêng nhưng xã hội thì luôn được lợi bởi sự điều chỉnh của nguyên tắc giá trị.

 Nhà tư bản càng sản xuất ra những sản phẩm dịch vụ có giá trị thì anh ta càng có cơ hội bán được nhiều và bán được với giá cao. Trong thị trường hàng hóa dịch vụ, luôn có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa giá cả và giá trị một cách tương đối. Càng đẹp, càng xịn, càng sang, càng tốt đương nhiên giá càng cao. Đó là nguyên tắc giá cả.

 Thị trường hàng hóa, dịch vụ thì như vậy. Nhưng thị trường tài chính và bất động sản thì không phải lúc nào cũng tuân theo nguyên tắc đó. Hay nói cách khác là trong những thị trường này, mối tương quan giữa giá cả và giá trị nhiều khi trở nên vô nghĩa. Trong nhiều trường hợp, người mua kẻ bán trong những thị trường này tuân theo nguyên tắc kỳ vọng chứ không phải giá trị. Người mua sẵn sàng mua ở những mức giá trên trời hoàn toàn không tương xứng với giá trị thật miễn là họ kỳ vọng sẽ bán được giá cao hơn trong tương lai. Đó chính là đầu cơ.

 Trong thị trường hàng hóa dịch vụ, giá càng tăng người mua càng giảm, giá càng hạ càng bán được nhiều. Nhưng với thị trường chứng khoán và bất động sản trong cơn sốt, giá càng cao người ta càng đổ xô đi mua nhiều. Đến khi thị trường hạ nhiệt, giá xuống thấp lại rất ít người mua, nhà đầu cơ chỉ nhanh nhanh bán thốc bán tháo để rút khỏi thị trường

 Tóm lại, thị trường tài chính và bất động sản trong nhiều tình huống vận hành ngược với thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường. Nhìn lại các cuộc khủng hoảng của CNTB trong lịch sử, đặc biệt là cuộc khủng hoảng những năm 1930 và cuộc khủng hoảng hiện nay, người ta đều thấy khởi nguồn từ sự nổ tung của “bong bóng” đầu cơ trong thị trường bất động sản và chứng khoán.

 Nếu chia nền kinh tế tư bản ra thành hai thành phần rõ rệt là nền kinh tế tư bản sản xuất (hàng hóa và dịch vụ) và nền kinh tế tư bản tài chính (công cụ tài chính phái sinh, chứng khoán, bất động sản) thì có thể thấy: bộ phận thứ nhất tuân theo nguyên tắc giá cả và giá trị nên khá ổn định và bền vững; bộ phận thứ hai luôn biến động trồi sụt bởi trong nhiều trường hợp vận hành theo nguyên tắc kỳ vọng. 

 Trong một nền kinh tế ngày càng có mối liên hệ dây chuyền chằng chịt, mỗi thành tố đều ảnh hưởng tới các thành tố khác. Bộ phận tài chính “ảo” sụp đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của bộ phận sản xuất “thật”. Ngay từ những năm 1930, khi bộ phận tài chính chưa tinh vi và nền kinh tế cũng chưa có sự liên thông phức tạp như bây giờ, nhà kinh tế học Galbraith đã đưa ra kết luận đó trong cuốn sách Great Crash 1929 (bản tiếng Việt sắp ra mắt với tựa Ác mộng Đại khủng hoảng 1929): “Sự xoay tròn vô nghĩa của thị trường chứng khoán đã tác động đến giá nông sản, giá trị đất đai và sự hồi phục của tiền giấy và tài sản thế chấp. Chính trên thị trường chứng khoán, người ta không chỉ đánh bạc số tiền mình có mà đánh bạc cả sự thịnh vượng của một quốc gia.”

 Ngày nay, những công cụ tài chính phái sinh được các nhà tư bản tài chính “phát minh” ngày càng nhiều đã tạo ra chất xúc tác cho cuộc khủng hoảng. Tín dụng lỏng tạo điều kiện cho đầu cơ bất động sản tràn lan thì châm ngòi cho cuộc khủng hoảng ấy. Câu chuyện khủng hoảng vẫn bắt nguồn từ sự lộng hành của nền kinh tế tài chính. Tài chính đã không còn là nơi cung cấp vốn cho sản xuất đơn thuần nữa mà cũng tự “sản xuất” ra những “sản phẩm” để kinh doanh. Những sản phẩm vô giá trị như “rác” cũng được bán với giá của “vàng” cho tới một ngày giấc mộng qua đi thì tất cả bỗng sụp đổ.

 Cuộc khủng hoảng được châm ngòi từ nền kinh tế tài chính, mà nền kinh tế đó thường xuyên bất tuân theo quy luật giá trị và giá cả thông thường. Khi nền kinh tế tài chính “hắt hơi” thì nền kinh tế sản xuất cũng “sổ mũi” hay nói theo Galbraith thì “kẻ yếu không chỉ hủy hoại những kẻ yếu khác mà còn làm mối mọt kẻ mạnh”.

 Vì thế, nền kinh tế tài chính ‘ảo” mới là tác nhân của khủng hoảng, không phải nền sản xuất ‘thật”. Quy luật kỳ vọng mới tạo ra khủng hoảng chứ không phải quy luật giá trị và giá cả hợp lý của CNTB. Vậy nên, kết tội CNTB cho những đổ vỡ hiện nay là thái quá, quay về với những mô hình nhà nước điều tiết sản xuất kinh doanh càng nguy hiểm.  Cái cần điều tiết mạnh hơn là bộ phận kinh tế tài chính chứ không phải toàn bộ nền kinh tế tư bản nơi bộ phận sản xuất hàng hóa và dịch vụ vẫn đóng vai trò chủ lực.

 Bộ phận kinh tế tài chính đương nhiên cũng là một phần quan trọng của bức tranh kinh tế tư bản, phần đó có những lỗi lầm mà CNTB chưa giải quyết được. Tuy nhiên, đó là những lỗi lầm của một thành phần chứ không phải toàn thể CNBT, đó là những sai sót không thuộc về bản chất hợp lý là quy luật giá trị – giá cả của CNTB. Nếu Adam Smith có sống lại để thanh minh cho CNTB, có lẽ ông sẽ nói: “CNTB có lỗi nhưng không có tội…”

 Khánh Duy

Thế giới đa cực hay đa đối tác?

Tháng Bảy 29, 2009

 “Dù quan hệ trước đây giữa Mỹ và Trung Quốc bị ảnh hưởng của ý tưởng cân bằng quyền lực giữa các nước lớn, thì suy nghĩ mới về thế kỷ 21 sẽ đưa chúng ta từ một thế giới đa cực tới một thế giới đa đối tác”. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố như vậy trong cuộc đối thoại Mỹ Trung về kinh tế và chiến lược đang diễn ra. Nhưng thế giới có đa đối tác được như bà nói hay không?

Lịch sử chính trị thế giới đúng như bà Clinton nói bị chi phối bởi ý tưởng cân bằng quyền lực giữa các nước lớn. Từ thời Hi Lạp cổ đại ở phương Tây, Xuân thu Chiến Quốc ở phương Đông cho tới kỷ nguyên hiện đại, nhiều điều đã đổi thay nhưng bản chất của chính trị thế giới không thay đổi. Mức độ từng giai đoạn có thể khác nhau, nhưung đó vẫn là cuộc đấu tranh quyền lực giữa các nước lớn.

Thế kỷ 20 bị phủ bóng đen bởi 2 cuộc thế chiến đẫm máu, hệ quả của những giằng xé quyền lực giữa các nhóm nước. Chiến tranh lạnh lại là một biểu hiện khác của cuộc xung đột quyền lực, thế giới chuyển từ đa cực trước thế chiến hai thành hai cực trong chiến tranh lạnh. Mỹ và Trung Quốc đã ở vào thế đối cực trên bàn cờ đó.

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, nhiều người cho rằng thế giới là đơn cực do Mỹ chi phối. Với sự trỗi dậy của Trung Quốc, không ít khẳng định thế giới rồi sẽ lại quay về hai cực Mỹ – Trung. Phần đông kết luận rằng thế giới đang ở đa cực với Mỹ, Trung Quốc, Liên Minh Châu Âu và nhiều nhóm các quốc gia khác đang nổi lên. Dù thế nào, đã nói tới lưỡng cực hay đa cực là nói tới sự cạnh tranh trực tiếp giữa các cực với nhau.

 Xét trên lý thuyết, những người cho rằng luôn có sự phân cực cạnh tranh thuộc về trường phái hiện thực. Họ xem thế giới là “vô chính phủ” và luôn tồn tại cuộc chiến giữa các quốc gia vì lợi ích vị kỷ, trong đó các thế lực luôn sử dụng sức mạnh quân sự và kinh tế để chèn ép các thế lực khác. Nói như Stalin sau thế chiến 2 thì: “Ai cũng sẽ áp đặt hình mẫu hệ thống của mình ở phạm vi quân đội của mình có thể với tới. Không thể nào khác được.”

 Ngược lại, những người ủng hộ một thế giới hợp tác nhiều hơn thuộc trường phái tự do. Họ cho rằng thế giới đang tiến về một giai đoạn mà các quốc gia có xu hướng trở thành đối tác để phát triển kinh tế hơn là đấu tranh quyền lực. Hợp tác sẽ chi phối thế giới thông qua các thể chế quốc tế, thị trường tự do và giá trị dân chủ.  Như học giả Francis Fukuyama viết về “điểm tận của lịch sử” sau khi chiến tranh lạnh kết thúc: Lịch sử đã kết thức ở mô hình thị trường tự do, điều đó “đồng nghĩa với tiến trình “Thị trường Chung hoá” ngày càng tăng của các mối quan hệ quốc tế, cũng như sự thu hẹp khả năng xung đột trên diện rộng giữa các nhà nước.”

  Phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Cliton cho thấy phần nào bước chuyển của Mỹ trong chính sách đối ngoại,  từ quan điểm hiện thực dưới thời Bush sang quan điểm tự do hơn dưới thời Obama.  Nước Mỹ đã nhìn nhận thế giới một cách ôn hòa và hợp tác nhiều hơn sau một giai đoạn “kiêu ngạo” và đôi khi “hiếu chiến” của Bush.

 Nhưng, thế giới trong thế kỷ 21 này có “đa đối tác” được như bà Clinton nói không thì lại là một câu chuyện khác.  Hãy cùng nhớ lại khoảng thời gian đầu thế kỷ 20, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổng thống Mỹ Wilson cũng nhiều lần tuyên bố về viễn cảnh thành lập một Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hợp Quốc sau này) với hi vọng sẽ ngăn chặn được tất cả các cuộc chiến tranh. Trên đường tới hội nghị hòa bình, một số cố vấn đã hỏi tổng thống Wilson rằng liệu ông có nghĩ rằng kế hoạch đó sẽ hoạt động hay không, Wilson đã đáp ngắn gọn như sau: “Nếu nó không hoạt động thì cũng phải làm cho nó hoạt động.”

 Wilson đã đem mong muốn chủ quan của mình áp đặt cho trật tự thế giới và kết quả đương nhiên trái với ý ông. Lịch sử thế kỷ 20 sau khi ông phát biểu câu nói ấy đã chứng kiến thêm một cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp nữa và vô vàn các cuộc xung đột khác mà Liên Hợp Quốc chỉ “biết đứng nhìn”.

 Trong chính trị, giữa lý tưởng và hiện thực, giữa những điều mong muốn và những điều có thể luôn có một khoảng cách lớn lao. Thế giới “đa đối tác” có thể sẽ chỉ là câu nói cửa miệng của một “nhà ngoại giao” hơn là diễn ngôn mô tả viễn cảnh thế giới hiện thực.

 Khánh Duy

Chứng khoán hay những lâu đài cát?

Tháng Sáu 18, 2009

“…có một bi kịch đã trôi qua gần 80 năm rồi mà người Mỹ nói riêng và thế giới tư bản nói chung vẫn chưa thể quên. “Ác mộng Đại Khủng Hoảng 1929” của nhà kinh tế học Galbraith mô tả lại tấm thảm kịch đó…”

 

1.

 

Thị trường chứng khoán Việt Nam lại đang ở những ngày sôi động. Những kỷ lục mới về khối lượng và giá trị giao dịch được xác lập. Người người lại lên sàn như đi hội bởi ai cũng kiếm được tiền. Những nhà đầu tư đang say mê lướt sóng có vẻ như đã quên rất nhanh bi kịch của một năm về trước.

 

Marx từng nói đại ý rằng nếu lợi nhuận 300% thì dù bị treo cổ nhà tư bản vẫn cứ làm. Cứ nhìn thấy lãi tăng liên tục vài phần trăm một ngày, các “nhà tư bản” ở nước ta vội quên những tháng ngày tuột dốt không phanh của năm 2008 cũng chẳng có gì lạ.

 

Thế mà, có một bi kịch đã trôi qua gần 80 năm rồi mà người Mỹ nói riêng và thế giới tư bản nói chung vẫn chưa thể quên. “Ác mộng Đại Khủng Hoảng 1929” của nhà kinh tế học Galbraith mô tả lại tấm thảm kịch đó.

 

2.

 

“…những cảnh tượng đang diễn ra tại New York sầm uất: những kẻ đầu cơ tự gieo mình qua cửa sổ; khách bộ hành phải tự tìm đường đi giữa thi thể của những nhà tài phiệt vừa rơi xuống…Làn sóng tự sát xuất hiện, và 11 nhà đầu cơ nổi tiếng đã tự kết liễu cuộc đời mình…”

Chỉ có màn này của tấm thảm kịch 1929 là người Việt Nam có lẽ chưa tưởng tượng ra được. Còn lại tất cả những gì Galbraith viết trong cuốn sách đều quen thuộc và dễ hình dung, đặc biệt đối với những ai đã trải nghiệm và quan sát cú tuột xích của chứng khoán Việt Nam năm 2008. Quy mô và mức độ của nó tất nhiên không thể so sánh với cú sụt lớn của nước Mỹ 80 năm về trước, nhưng bản chất thì có cái gì nhang nhác như nhau.

Bản chất đó, nói một cách thẳng thắn như Galbraith, là: “một khát khao hơi quá quắt, là mong muốn làm giàu nhanh chóng với nỗ lực ít nhất…”

 

3.

 

“Các chính khách quên mất chính trị; luật sư quên tòa án; nhà buôn quên mất công việc buôn bán; bác sĩ quên bệnh nhân; con nợ quên chủ nợ; linh mục quên bục giảng kinh, và thậm chí chính những người phụ nữ đã quên mất lòng kiêu hãnh và bàn trang điểm!” “Các văn phòng môi giới chật kín người đứng kẻ ngồi từ 10 giờ sáng tới 3 giờ chiều, họ dán mắt vào tấm bảng đen thay vì giành thời gian chú tâm vào công việc.”

Galbraith kể lại chuyện nước Mỹ vào khoảng thời gian đầy hi vọng trước năm 1929 mà như chuyện Việt Nam 2 năm trước. Người người bỏ việc cơ quan, nô nức kéo nhau lên sàn như đi chảy hội. Nhà đầu tư cá nhân đã thế, còn các công ty cũng không thể bỏ qua cơ hội lớn để kiếm lời. Các doanh nghiệp nhà nước thi nhau lập công ty tài chính hoặc dùng vốn nhà nước để đầu tư tài chính thay vì đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hóa ra, nước Mỹ 80 năm trước cũng vậy:

“thay vì sản xuất hàng hóa và phải đối mặt với những bất tiện và vấn đề đau đầu nhức óc, họ sẽ chuyển sang đầu cơ tài chính. Ngày càng nhiều công ty bắt đầu cho Phố Wall vay vốn thặng dư.”

Trong cơn say chứng khoán của hai năm trước, rất nhiều nhà đầu tư ngây thơ đã mua cổ phiếu OTC của những công ty con do các tập đoàn nhà nước mới thành lập. Chưa có thống kê chính thức, nhưng không ít trong số đó thành lập với mục tiêu chỉ là tận dụng cơn cuồng của thị trường để bán cổ phiếu. Giờ đây, vẫn còn nhiều người đang khóc dở mếu dở bởi không bán được cho ai những cổ phiếu hay chính xác hơn là mớ giấy vụn đó. Hoá ra, nước Mỹ cũng đã từng như thế.

“Có một thực tế không tránh khỏi là nhiều người sáng lập ra các công ty mới chỉ vì mục đích tranh thủ sự quan tâm của công chúng đối với những ngành công nghiệp nhiều hứa hẹn để huy động vốn và phát hành cổ phiếu.”

Bối cảnh đầy lạc quan và hi vọng trước cú sụt năm 1929 đã ru ngủ đa số người Mỹ. Không ai tin chứng khoán lại có thể sụp giữa những tháng ngày huy hoàng đó. Galbraith gọi đó là “niềm tin tự biện”, thứ niềm tin không dựa trên những chứng cứ thuyết phục mà chỉ dựa vào một cái cớ duy nhất: giá của ngày hôm sau chắc sẽ cao hơn ngày hôm trước.

 

4.                 

 

Nhưng rồi cái gì đến cũng phải đến.

“Những ảo ảnh càng lung linh bao nhiêu thì nỗi đau khi tỉnh mộng sẽ càng đau đớn bấy nhiêu. Sự thịnh vượng của Kỷ nguyên mới sẽ đến lúc phải tiêu tan, trong đám tang của nó, những khó khăn bù trừ sẽ đến gõ cửa.”

Cuối năm 1929, thị trường sụt giảm một cách thê thảm và trở thành một “cống thoát nước”, các nhà đầu tư điên cuồng bán tháo. Phố Wall chìm trong hoảng loạn. Cuộc chơi tài chính bỗng lộ nguyên hình là một cuộc chơi thao túng. Bao nhiêu những phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật, chỉ số, thuật ngữ, mô hình, dự đoán đều đổ sụp trước sự phũ phàng, trần trụi và đỏng đảnh của thị trường. Galbraith đi đến một kết luận có phần quá cay đắng:

“Phố Wall cũng giống như một người phụ nữ xinh đẹp và thành đạt, phải đi tất cotton đen, đồ lót bằng lông dầy cộm và khoa trương kiến thức nội trợ của mình, bởi vì, thật đáng buồn, tài năng tuyệt đỉnh của cô ta là làm gái điếm.”

Nhưng chưa hết, sự sụp đổ của thị trường tài chính đã lan sang nền kinh tế thực và tạo ra một cuộc đại suy thoái chưa từng thấy trong lịch sử kinh tế cho tới tận ngày hôm nay. Cuộc đại suy thoái kéo dài 4 năm từ 1929 đến 1933 đó đã tạo ra sự thất nghiệp, phá sản và khốn khó cùng cực cho người Mỹ. Người Mỹ đã hiểu: “chính trên thị trường chứng khoán, người ta không chỉ đánh bạc với số tiền mình có mà còn đánh bạc cả với sự thịnh vượng của một quốc gia.”

5.

Năm ấy, mùa thu năm 1929, Sàn Giao dịch Chứng khoán New York bước sang tuổi 112. Từ khi thành lập cho tới năm 1929 và từ 1929 cho tới nay, nước Mỹ đã trở thành “lão làng” với quá nhiều trải nghiệm về những thăng trầm của chứng khoán. Người ta đã ví chứng khoán như những lâu đài cát, cứ xây lên cao cao mãi rồi nhiều khi chỉ một đợt sóng nhẹ cũng khiến cả toà lâu đài đổ ụp nhanh chóng.

Mô tả lại cuộc đại sụp đổ năm 1929, Galbraith đã không tiếc lời phê phán tính bất ổn và tiêu cực của thị trường. Dẫu vậy, thị trường tài chính chắc chắn có những mặt tích cực và đóng góp quan trọng, làm cơ sở tồn tại của nó cho tới ngày nay.

Thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ là cậu bé lên chín lên mười, sẽ còn nhiều lần vấp ngã và suy sụp. Nhưng việc xây dựng một thị trường tài chính lành mạnh để các doanh nghiệp triển vọng huy động vốn vẫn là cần thiết. Sẽ có những lâu đài sụp xuống để rồi lại được xây lên.

Có hay không “thần dược” cho tăng trưởng kinh tế

Tháng Năm 14, 2009

 Trong cuốn “Truy tìm căn nguyên tăng trưởng”, tác giả William Easterly đã tự trao cho mình sự mệnh rà soát lại hành trình đi tìm thần dược tăng trưởng kinh tế của các nhà kinh tế học. Nhiều kết luận hữu ích đã được khai mở từ hành trình đó.

 4 năm trước, Việt Nam xôn xao chuyện cơ hội của Thánh Gióng, làm thế nào tập hợp sức mạnh dân tộc để đẩy tốc nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm biến Việt Nam thành cường quốc. Giờ đây, không thấy ai nói tới những chuyện “thần kỳ” như vậy nữa.

 Sự thực là sự thần kỳ cũng đã diễn ra ở nhiều quốc gia Đông Á. Những vùng đất xưa là cánh đồng lúa, khu ổ chuột chỉ sau 15, 20 năm phát triển bỗng trở thành những khu cao ốc chọc trời như khu Phố Đông ở Thượng Hải. Tuy nhiên, điều tương tự đã không diễn ra ở đa số các quốc gia đang phát triển ở nhiều châu lục khác.

 Việt Nam cũng được liệt vào danh sách các quốc gia có tốc độ tăng trưởng khá cao sau hơn 20 năm đổi mới. Nhưng chất lượng, chiều sâu và độ bền vững của tăng trưởng lại bị nghi ngờ. Sự phát triển dựa vào tăng vốn đầu tư và lao động giản đơn hơn là tăng năng suất nhờ cải tiến công nghệ.

 Để tăng trưởng với số lượng và chất lượng tốt hơn, vẫn nghe nhiều quan chức, học giả lên tiếng đại loại như: chúng ta cần sử dụng hiệu quả hơn nữa viện trợ phát triển chính thức ODA, chúng ta phải thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài FDI, chúng ta nhất định phải phát triển nền giáo dục, chúng ta nhất thiết phải coi đầu tư vào khoa học công nghệ là ưu tiên hàng đầu…

 Rất nhiều “cần”, “phải”, “nhất thiết”, “nhất định”. Rất nhiều “mệnh lệnh” đã được đưa ra nhưng vốn ODA vẫn bị xà xẻo, FDI vẫn chậm giải ngân, giáo dục và công nghệ vẫn chậm được cải thiện. Mệnh lệnh, hô hào, khẩu hiệu càng nhiều thì hiệu quả càng ít, xưa nay vẫn vậy…

 Câu chuyện trên không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà ở rất nhiều quốc gia khác. Các kế hoạch, chính sách, khuyến nghị phát triển… hoặc không được thực thi, hoặc được thực thi thì cũng không mang lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn.

 Tại sao lại như vậy? Nhà kinh tế học William Easterly trả lời trong cuốn “Truy tìm căn nguyên tăng trưởng”.

 Con người hành động vì động cơ

 William là từng là chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) về viện trợ và phát triển cho các nước thế giới thứ 3. Hơn 15 năm làm việc ở WB, ông có điều kiện khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố vẫn được coi là “thần dược” cho tăng trưởng kinh tế như: viện trợ, đầu tư, giáo dục, giảm dân số, xóa nợ…

 Kết quả khảo sát của William Easterly khá bất ngờ: các thần dược trên không hoàn toàn có mối tương quan tỉ lệ thuận với tăng trưởng. Ở rất nhiều quốc gia, các yếu tố trên thì có nhưng tăng trưởng thì không.  

 William lý giải thực tế trên bằng một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế học: Con người ai cũng hành động vì động cơ.

 Để cho dễ hiểu, hãy thử hình dung trong một doanh nghiệp nhà nước có một ông giám đốc lo cho việc công thì ít mà tìm cách tư túi thì nhiều. Sử dụng vốn nhà nước và lại ít bị kiểm soát, ông này không có động cơ phải kinh doanh hiệu quả nên sẽ mặc sức lãng phí, tham nhũng. Nhân viên công ty cũng dễ có xu hướng hành động theo kiểu “biến tài nguyên công ty thành tài sản cá nhân”.

Trong tình huống này, nhà nước tiếp tục rót thêm tiền để công ty đầu tư vào máy móc, thiết bị cũng không mang lại hiệu quả vì đơn giản, toàn bộ công ty không có động cơ để kinh doanh hiệu quả. Có tìm cách giáo dục đào tạo nhân viên cũng chẳng ích gì bởi nhân viên không có động cơ phải học để nâng cao trình độ chuyên môn. Nếu mang phong bì đến nhà sếp dễ được đề bạt hơn có năng lực thật thì không ai cảm thấy được khuyến khích phải phát triển năng lực cả.

Công ty vay ngân hàng quá nhiều tới mức không có khả năng chi trả, nhà nước tìm cách xóa nợ hay cho vay lãi suất thấp để công ty có điều kiện vực lại. Nhưng các giải pháp trên cũng chỉ mang tính tình thế, công ty thiếu động cơ để phát triển lại càng được thể, tiếp tục vay vốn ưu đãi để thực hiện những dự án hiệu quả thấp, thất thoát cao.

Tóm lại, mọi nỗ lực đầu tư, viện trợ, xóa nợ, giáo dục mà nhà nước ưu đãi cho công ty trên đều vô nghĩa. Các thần dược trên không thể thúc đẩy tăng trưởng khi mà bản thân công ty và những người lãnh đạo vô trách nhiệm của nó không có động lực tự nhân phải tăng trưởng.

Điều tương tự cũng diễn ra ở cấp độ quốc gia với một chính phủ vô trách nhiệm, mọi thần dược giúp các nước này phát triển cũng “như muối bỏ bể”. William Easterly lý giải: “Tăng thêm máy móc sẽ trở thành vô ích khi thiếu động lực phát triển. Có thể máy móc sẽ tạo ra những sản phẩm không ai mong muốn hoặc máy móc thì có nhưng những yếu tố sản xuất đầu vào thì lại không” hoặc “nếu không có động cơ đề đầu tư cho tương lai thì việc mở rộng giáo dục chẳng còn mấy giá trị. Cho dù bạn bị buộc phải đến trường thì điều đó cũng không làm thay đổi động cơ để bạn đầu tư vào tương lai. Ở một đất nước mà hoạt động duy nhất đem lại lợi nhuận là vận động hành lang để tìm kiếm ân huệ thì tạo ra những lao động có tay nghề cao không phải là chìa khóa của thành công.”

Một chính phủ không bị kiểm soát và cân bằng bởi các lực lượng khác trong xã hội sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng vô trách nhiệm. Chính phủ đó có thể bóp chết tăng trưởng bằng cách dễ dàng nhất là triệt tiêu, kìm hãm động cơ. William chỉ ra trong cuốn sách nhiều dạng thức qua đó chính phủ trực tiếp hay gián tiếp kìm hãm động cơ của xã hội từ tham nhũng, lạm phát, thâm hụt ngân sách tới duy trì tỉ giá chợ đen cao… Khi đó, các nỗ lực phát triển đều dậm chân tại chỗ.

Có hay không có “thần dược”?

Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986. Đó có thể coi là cuộc giải phóng động cơ lớn lao. Chấp nhận quyền tự do sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh đã khiến cho mỗi cá nhân tìm thấy động cơ làm giàu, động cơ phát triển. Mức tăng trưởng khá cao trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua là kết quả của cuộc giải phóng động cơ đó.

Dù vậy, giải phóng động cơ là cần thiết nhưng chưa đủ. Còn cần làm nhiều hơn thế để biến những khu ổ chuột thành cao ốc. Ngay cả khi không bị kìm hãm bởi chính phủ thì cũng không có gì đảm bảo rằng những người dân ở các quốc gia nghèo có được động lực và khuyến khích cần thiết để vươn lên mạnh mẽ hơn. Họ vẫn có xu hướng quẩn quanh trong vòng tròn tiêu cực của thiếu kỳ vọng, niềm tin và nỗ lực.

Việt Nam cũng đang ở ngưỡng loay hoay tìm một con đường phát triển khác với kiểu tăng trưởng theo chiều rộng như hiện nay. Nhiều học giả đã đề cập tới sự cần thiết của một cuộc đổi mới 2, thay đổi căn bản để quá trình phát triển có được bước ngoặt, chất lượng và bền vững hơn. Nhưng thực hiện điều đó trên tư tưởng nào? William Easterly đã rút ra được một số kết luận có giá trị.

Cuốn sách không đưa ra một công thức hay “thần dược” nào cụ thể, nhưng những người làm chính sách ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều gợi mở và khuyến nghị quan trọng cho quá trình đổi mới tiếp theo.

Khánh Duy

Nỗi ám ảnh Đại Suy Thoái

Tháng Năm 9, 2009

Cuộc khủng hoảng hiện nay thường được so sánh với cuộc Đại suy thoái 1929-1933. Tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng hai cuộc khủng hoảng không hoàn toàn giống nhau. Xin giới thiệu bài so sánh giữa hai cuộc khủng hoảng này của Robert Samuelson, biên tập viên nổi tiếng của hai tờ Newsweek và Washington Post.

Đại Suy thoái những năm 1930 là một sự kiện kinh tế nổi bật nhất của thế kỷ 20. Nó gần như là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ hai, tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát xít hình thành ở Đức. Cuộc Đại Suy thoái cũng khuyến khích định hình một hệ thống phúc lợi xã hội mới ở Mỹ để đối phó với nghèo khổ tràn lan. Ở khắp nơi, cuộc khủng hoảng làm mất niềm tin vào chủ nghĩa tư bản phi điều tiết. Cuộc khủng hoảng hiện tại càng làm cho người ta quan tâm nhiều hơn tới cuộc Đại suy thoái trong quá khứ, đó cũng là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, chúng ta không nên đẩy sự so sánh đi quá xa giới hạn của nó.

Cuộc Đại suy thoái tạo ra sự tàn phá đặc biệt nghiêm trọng. Như Liaquat Ahamed viết trong cuốn sách “Những chúa tể tài chính” của ông: “Trong suốt 3 năm khủng hoảng đó, GDP thực tế trong những nền kinh tế lớn đã giảm 25%, một phần tư nam giới trong độ tuổi lao động mất việc làm… Suy thoái kinh tế đã tạo ra sự khốn khó chưa từng thấy ở khắp nơi trên thế giới, từ những thảo nguyên bao la ở Canada tới những thành phố đông đúc chật chội ở Châu Á.”

Ahamed, nhà quản lý tài chính chuyên nghiệp, tác giả cuốn sách cho rằng có hai nguyên nhân chính tạo ra cuộc Đại suy thoái. Thứ nhất là việc tái phục hồi một cách thiếu định hướng chế độ bản vị vàng vào những năm 1920. Thứ hai là những món nợ chính phủ khổng lồ, bao gồm cả những món bồi thường chiến phí của Đức, hệ quả của chiến tranh thế giới thứ nhất. 

Câu chuyện mà Ahamed kể trong cuốn sách dựa trên những công trình nghiên cứu của các kinh tế gia danh tiếng như Milton Friedman, Anna Schwartz, Charles Kindleberger, Barry Eichengreen và Peter Temin. Nhưng Ahamed khác biệt ở chỗ ông chỉ ra những con người và lực lượng chính trị đã gây ra cuộc khủng hoảng. Cuốn sách của ông nhắc tới 4 nhân vật dính líu sâu vào những chính sách ngoan cố sai lầm trong kỷ nguyên đó. Đó là

Montagu Norman, thống đốc ngân hàng Anh Quốc; Benjamin Strong, người đứng đầu cơ quan dự trữ bang New York, Émile Moreau, giám đốc ngân hàng Pháp; và Hjalmar Schacht, giám đốc ngân hàng Reichbank của Đức. Quyết tâm tái lập chế độ bản vị vàng như một động thái cần thiết cho sự thịnh vượng toàn cầu đã chỉ tạo ra sự đổ vỡ.

Dưới chế độ bản vị vàng, tiền giấy được hậu thuẫn bởi dự trữ vàng. Nếu vàng đổ vào một quốc gia (thường dưới dạng thặng dư thương mại hoặc vay nước ngoài), tiền trong nền kinh tế và nguồn cung tín dụng đương nhiên sẽ tăng lên. Nếu vàng đổ ra ngoài, tiền và tín dụng cũng bị thu hẹp lại. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, các chính phủ Châu Âu đã cho ngưng chế độ bản vị vàng. Họ tài trợ cho chiến tranh bằng tiền giấy và các khoản đi vay từ Mỹ. Sở dĩ người ta có xu hướng thích hồi phục lại chế độ bản vị vàng là do muốn tạo cảm giác rằng tiền giấy đáng tin cậy.

Không may là cuộc chiến đã phá huỷ hệ thống đó theo những cách không thể sửa chữa được. Nước Anh, quốc gia chủ chốt thời đó, đã chỉ còn 7,5% lượng vàng dự trữ của toàn thế giới vào năm 1925. Hoa Kỳ và Pháp cùng nhau nắm giữ hơn nửa lượng vàng dự trữ của thế giới. Chiến tranh làm tăng lượng dự trữ của Mỹ. Khi Pháp trở lại chế độ bản vị vàng, tỉ giá của nó được định giá thấp để kích thích xuất khẩu và dự trữ vàng. Trong khi đó, khoản bồi thường chiến tranh mà Đức phải trả cho Anh và Pháp rất lớn, trong khi những quốc gia đó nợ Hoa Kỳ một khoản rất lớn. Hệ thống tài chính toàn cầu là hệ thống nợ nần lẫn nhau đến nỗi dễ “tan vỡ chỉ với một sức ép đầu tiên.” Ahamed viết như vậy.

Mọi việc bắt đầu khi Nước Mỹ tăng lãi suất vào năm 1928, khiến các quốc gia khác cũng phải tăng theo (không quốc gia nào muốn mất vàng bởi những nhà đầu tư chuyển tiền ra nước khác). Lãi suất tăng cao cuối cùng làm cho thị trường chứng khoán sụp tan tành. Các nền kinh tế trở nên yếu đi, các khoản nợ không thể trả được. Ngân hàng hoảng loạn. Tín dụng và sản lượng công nghiệp đều sụt giảm. Tỉ lệ thất nghiệp tăng. Suy yếu lại càng suy yếu như một cái vòng luẩn quẩn.

Đáng buồn là cuộc khủng khoảng hiện nay cũng có những điểm tương tự. Cũng như năm 1930, hệ thống tín dụng toàn cầu cũng lâm vào tình trạng sụp đổ. Cổ phiếu, trái phiếu và các ngân hàng đã liên hệ chặt chẽ với nhau. Mất mát ở một lĩnh vực sẽ ngay lập tức kéo lùi sự phát triển của các lĩnh vực khác. Theo ước tính của Viện tài chính quốc tế, số tiền chảy vào 28 nền kinh tế đang phát triển vào năm 2009 dự đoán sẽ giảm 80% so với năm 2007. Cũng như những năm 1920, sự bất hợp lý về tỉ giá đã bóp méo thương mại. Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc giờ đây cũng đang bị đánh giá thấp.

Tuy nhiên, có những khác biệt lớn giữa ngày đó so với bây giờ. Khác biệt lớn nhất là các chính phủ hiện nay không bị ràng buộc bởi chế độ bản vị vàng. Chính vì thế, họ dễ dàng nới lỏng tín dụng, hỗ trợ các định chế tài chính và tăng chi tiêu để ngăn chặn đà suy thoái kinh tế. Cục dự trữ liên bang và Quỹ tiền tệ quốc tế có vốn cho những quốc gia đang phát triển vay để bù đắp lại những mất mát tín dụng tư. Không có thù oán giữa các quốc gia trên trường quốc tế như sau chiến tranh thế giới thứ nhất, những thù oán đã ngăn cản sự hợp tác. Vào năm 1931, nước Pháp đã ngăn cản việc cứu Ngân hàng lớn nhất của Áo (Creditanstalt), sự sụp đổ của ngân hàng này đã châm ngòi cho một làn sóng hoảng loạn ở Châu Âu.

Khi các quốc gia loại bỏ chế độ bản vị vàng, Hoa Kỳ loại bỏ vào năm 1933, các nền kinh tế bắt đầu phục hồi. Một số chỉ số hiện tại đã chứng tỏ rằng cuộc khủng hoảng hiện nay đang có xu hướng giảm, Trung Quốc cũng có một số dấu hiệu của sự phục hồi. Những điều đó đã xoá bỏ những so sánh ảm đạm giữa cuộc khủng hoảng hiện nay với cuộc Đại suy thoái năm xưa. Nhưng nếu những dấu hiệu hồi phục trên sai, những kết luận ảm đạm hơn có khi lại trỗi dậy.

Những sai lầm của cuộc Đại suy thoái bắt nguồn từ những tư tưởng kinh tế chính thống thịnh hành thời đó, những tư tưởng đã bị những thực tế mới vượt qua. Những chính sách kinh tế của hiện tại cũng phản ánh những tư tưởng chính thống của ngày hôm nay. Nhưng sẽ ra sao nếu chúng cũng lại trở nên sai lầm bởi thế giới đang chuyển động theo những cách thức gần như rõ ràng là trở về quá khứ?

Economist nói về Gói kích cầu Việt Nam

Tháng Tư 24, 2009

Việt Nam khẩn trương triển khai Gói kích thích kinh tế

 

Việt Nam đang thực hiện một gói kích thích kinh tế đầy hứa hẹn với tốc độ khá khẩn trương.

 

Các bộ phận trong gói kích thích kinh tế của Việt Nam đang trở nên rõ ràng hơn trong một vài tuần trở lại đây và đang có vẻ tạo được ảnh hưởng. Tốc độ khẩn trương của gói kích thích được công bố vào đầu năm 2009, cho thấy các nhà làm chính sách ở Việt Nam nhận thức rõ sự khẩn thiết phải giảm nhẹ tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới nền kinh tế nội địa. Tuy nhiên, cũng có nhiều mối nghi ngờ xung quanh hiệu quả của chương trình kích thích cũng như hậu quả tiềm tàng của nó đối với ngân sách quốc gia.

 

Một trong những thành tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hỗ trợ lãi suất 4% cho những khoản vay ngắn hạn, gói này đang được khối doanh nghiệp rất háo hức đón nhận. Mục tiêu của gói kích thích này là giúp giảm lạm phát, hỗ trợ các công ty trong việc duy trì khả năng sản xuất và giữ công ăn việc làm. Tuy nhiên, quy mô của việc cho vay theo chương trình này cho thấy nó được sử dụng chủ yếu để các doanh nghiệp đảo nợ. Tất cả các công ty trừ những đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực được coi là “tiêu cực” (như môi giới chứng khoán, nhập khẩu hàng tiêu dùng và đầu tư bất động sản) đều có quyền được tiếp cận gói hỗ trợ này. Tất cả các ngân hàng thương mại và công ty tài chính đều có trách nghiệm cung cấp các khoản vay ngắn hạn cho doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi và đương nhiên sẽ nhận được khoản bù lãi suất từ Ngân hàng Nhà nước (SBV).

 

Cho đến giữa tháng 4, khoảng 220 nghìn tỉ đồng tức khoảng 12,4 tỉ đô la Mỹ tiền vay mới đã được giải ngân theo chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất này. SBV dự tính con số này sẽ tăng lên tới 420 nghìn tỉ vào cuối năm 2009 (khi chương trình hỗ trợ lãi suất kết thúc). Các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước là những đơn vị năng động nhất trong việc cung cấp các khoản vay này còn chi nhánh các ngân hàng nước ngoài ít tích cực hơn cả. Khoảng 60 % khoản vay đã được cung cấp cho các công ty tư nhân, phần còn lại chẩy vào khối doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã.

 

Một thành tố khác trong chương trình kích thích kinh tế của chính phủ là chương trình bảo đảm tín dụng mới để hỗ trợ ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. Việt Nam đã từng lưỡng lự khi triển khai những quỹ đảm bảo tín dụng trong quá khứ, chủ yếu là ở cấp tỉnh, với thành công hết sức hạn chế. Chương trình mới này là ở cấp độ quốc gia. Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) được uỷ quyền là đơn vị cấp vốn duy nhất. Khác với thường lệ, VDB có thể đảm bảo 100% khoản vay, cho cả khoản vay đôla Mỹ lẫn tiền đồng. Những doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn phải có ít hơn 500 nhân viên, vốn đăng ký ít hơn 20 tỉ đồng và đảm bảo không có những khoản nợ ngân hàng hoặc nợ thuế quá hạn. Khác với chương trình hỗ trợ lãi suất, VDB có quyền quyết định công ty nào sẽ nhận được khoản đảm bảo.

 

Thông báo mới đây của chính phủ vào 18 tháng 4 cho biết có hàng loạt những biện pháp kích thích khác nhắm vào khu vực kinh tế nông nghiệp, khu vực bị tổn thương nặng nề nhất bởi suy thoái toàn cầu. Chính sách mới bao gồm các khoản vay phi lãi suất để mua thiết bị nông nghiệp và vay hỗ trợ lãi suất cho phân bón và các đầu vào cho nông nghiệp khác. Khu vực nông nghiệp của Việt Nam tạo công ăn việc làm cho 2 phần 3 dân số và góp phần khá lớn vào xuất khẩu.

 

Những quan ngại về ngân sách

 

Mặc dầu việc áp dụng nhanh chóng gói kích thích kinh tế này có tác động khích lệ lớn, tuy nhiên, cách tiếp cận mạnh mẽ của chính phủ đã làm dấy lên những quan ngại về ảnh hưởng của nó lên nền tài chính công. Ngân sách cuộc gia đã bị đặt dưới áp lực nặng nề bởi sự sụt giảm nguồn thu từ thuế. Trong những năm gần đây, nguồn thu từ dầu thô luôn đóng vai trò quan trọng đối với chính phủ. Nhưng với việc giá dầu thế giới giảm mạnh từ điểm đỉnh năm 2008, nguồn thu của chính phủ sẽ bị giảm mạnh, ảnh hưởng rõ rệt tới những kế hoạch chi tiêu.

 

Trong một nỗ lực tăng ngân quỹ cho những dự án thuộc gói kích thích, chính phủ gần đây bắt đầu phát hành trái phiếu đôla Mỹ, với mục tiêu phát được khoảng 1 tỉ đô la trái phiếu với nhiều kỳ hạn khác nhau trong năm 2009. Tuy nhiên, những nỗ lực này có vẻ như không thành công bởi nhà đầu tư mong muốn một lợi nhuận cao hơn những gì chính phủ sẵn sàng trả.

 

Viện tới các nhà tài trợ

 

Nhu cầu ngày càng tăng để đảm bảo những khoản chi thêm đã khiến chính phủ phải viện đến các nhà tài trợ quốc tế một cách quyết liệt và trách nhiệm hơn, tuỳ thuộc vào từng đối tác khác nhau. Chính phủ Nhật bản đã nối lại viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam, sau khi công an bắt giữ ít nhất hai quan chức Việt Nam bị buộc tội đã ăn hối lộ trong một dự án xây dựng gần Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh đầu tư trực tiếp nước ngoài và kim ngạch xuất khẩu đều giảm. Các đối tác phát triển của Việt nam đang có lợi thế trong việc thúc đẩy Việt Nam cải cách kinh tế hơn so với những năm gần đây, khi Việt Nam còn nhận được những khoản đầu tư khổng lồ và mong muốn cải cách của các nhà hoạch định chính sách có vẻ như xẹp xuống. Tuy nhiên, ngay cả khi thực trạng này không xảy ra thì chính phủ cũng sẽ phải nỗ lực xoa dịu sự thất vọng của nhà tài trợ, do tỉ lệ giải ngân vốn ODA chậm bởi sự thờ ơ của hệ thống hành chính cũng như năng lực yếu kém của một số cơ quan nhà nước.

 

Ở thời điểm hiện tại, việc giải ngân là rất cần thiết để đẩy mạnh nền kinh tế nội địa đang yếu. Vì vậy, nỗ lực loại bỏ nút cổ chai đang kìm hãm việc giải ngân vốn ODA hiển nhiên phải là một vấn đề cấp thiết.

Công thức thành công hay những ảo tưởng ngờ nghệch?

Tháng Tư 21, 2009

 

 

Đối với những ai còn đang lâng lâng tâm đắc với những bí quyết thành công được viết ra trong những cuốn sách kinh doanh nhan nhản hiện nay thì có lẽ Hiệu ứng Hào quang của giáo sư Phil Rosenzweig là một gáo nước lạnh. Gáo nước không thèm đổ vào những cuốn sách thông thường mà ụp xuống đầu những “quả bom tấm” đang được giới CEO ca ngợi nhiệt liệt.

 

Kẻ phá bĩnh

 

Steve Balmer, thủ lĩnh của Microsoft nói rằng ông gối đầu giường cuốn sách “Từ tốt đến Vĩ đại” của tác giả Jim Collins. Không chỉ Balmer, CEO khắp nơi trên thế giới tìm đọc cuốn sách của Jim Collins để tìm hiểu “công thức” xây dựng một công ty vĩ đại. Cuốn này cùng với cuốn “Xây dựng để trường tồn” của Collins đều đã được dịch ra tiếng Việt. Có lẽ đó là hai cuốn sách kinh doanh được các giám đốc ở Việt Nam đọc và bán tán nhiều nhất.

 

Trong khi thế giới đang tung hô Jim Collins diễn thuyết trên bục thì có một người lại ném lên đó “một chiếc giầy”. Kẻ phá bĩnh đó là Phil Rosenzweig, giáo sư Viện Phát triển quản lý quốc tế (IMD); và chiếc giày đó là cuốn “Hiệu ứng Hào quang”.

 

Không chỉ Jim Collins, chiếc giầy còn được ném về phía nhiều tác giả khác là các giáo sư quản trị kinh doanh, các nhà nghiên cứu quản trị cũng như một số tác giả sách bán chạy nhất trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp. Một mũi tên bắn nhiều con chim, Phil Rosenzweig đã nhập vai một người “chọc gậy bánh xe” hoàn hảo khi phê phán tất cả các thể loại công thức thành công chỉ là những ảo vọng.

 

“Cô gái” khác… “bà già”

 

“Điểm khác biệt giữa một quý bà và một cô gái không phải ở cách xử thế của họ, mà ở cách họ được đối xử như thế nào.” Rosenzweig trích dẫn câu nói dí dỏm của Bernard Shaw trong cuốn sách.

 

Đàn ông vây quanh, nhìn ngắm, ngưỡng mộ những cô gái trẻ đẹp, chẳng ai làm thế với một bà già. Tất nhiên rồi, với các công ty cũng thế, báo chí tôn vinh, ca ngợi các công ty thành công và CEO của nó lên tận mây xanh. Còn những công ty thất bại thì đương nhiên chẳng ma nào đoái hoài tới.

 

Công ty thành công nào mà chẳng được ngợi ca rằng có những giám đốc táo bạo, mạnh mẽ, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, dám nghĩ dám làm, có tầm nhìn vượt trội, liêm chính, sẵn sàng hi sinh sự phát triển của công ty…

 

Công ty thành công nào chẳng được suy tôn rằng có những chiến lược tập trung, kiên định, thực tế; một nền văn hóa khuyến khích sáng tạo, một hệ thống nhân sự luôn cam kết vì sự hoàn hảo…

 

Khí một công ty đang ở đỉnh vinh quang, báo chí, nhân viên, đối tác, khách hàng thi nhau “bốc thơm” họ. Phil Rosenzweig gọi đó là Hiệu ứng hào quang. Chúng ta luôn nhìn thấy quanh những vì sao là một vầng hào quang lấp lánh.

 

Một số cuốn sách kinh doanh bán chạy nhất hiện nay đều dựa trên dữ liệu nghiên cứu là hàng ngàn bài báo viết về các công ty thành công, cũng như thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn đối với nhân viên, đối tác của họ. Theo Phil Rosenzweig, người viết sách không thể thu được kết quả chính xác từ những dữ liệu đó bởi tất cả sẽ chỉ là hào quang.

 

Rosenzweig đưa ra hai ví dụ nghiên cứu là công ty Cisco và công ty ABB. Khi ở trên đỉnh thành công, họ được báo giới và doanh giới ca ngợi như trên. Đến khi hai công ty này xuống dốc, những giám đốc táo bạo ngày nào bỗng bị chê là liều lĩnh, những giám đốc liêm chính ngày nào bỗng biến thành những kẻ tham tiền.

 

Còn những chiến lược trước đây được khen ngợi là tập trung nay bị gọi là bảo thủ, nền văn hóa công ty trước được coi là gắn kết thì nay bỗng bị phê bằng những từ ngữ nặng nề nhất. Câu chuyện cổ tích thế là tan vỡ…

 

Phil Rosenzweig cho rằng đa số những cuốn sách tuyên bố đưa ra những bản thiết kế để xây dựng công ty thành công đều chỉ là những câu chuyện cổ tích. Tác giả của nó là người giỏi kể chuyện chứ không phải nhà nghiên cứu khoa học bởi tất cả những dữ liệu đều không mang tính chính xác của khoa học do bị che mờ bởi hiệu ứng hào quang.

 

Người đọc tất nhiên khoan khoái khi nghe những câu chuyện cổ tích thú vị, họ mơ màng nhìn lên bầu trời đầy sao và tưởng tượng ra vẻ đẹp lung linh của nó. Những tất cả chỉ là ảo tưởng, những vì sao lấp lánh hào quang kia khi đến gần cũng chỉ là lớp đất đá xù xì…

 

Thầy bói xem voi

 

Hiệu ứng hào quang chỉ là một trong số nhiều ảo tưởng mà các nhà nghiên cứu kinh doanh mắc phải. Rosenzweig đã chỉ ra tới 8 ảo tưởng khác làm mờ mắt các nhà nghiên cứu, biến họ thành những ông thầy bói xem voi hơn là nhà khoa học.

 

Một ảo tưởng thú vị khác mà Rosenzweig gọi là ảo tưởng về sự tương quan và quan hệ nhân quả. Ví dụ như một nhà nghiên cứu có thể đưa ra mệnh đề: Đào tạo nguồn nhân lực mạnh là yếu tố then chốt tạo ra thành công của một công ty. Ông ta sẽ liên tục tìm ra mọi dẫn chứng và số liệu để chứng minh cho mệnh đề của mình.

 

Một bài báo hay thậm chí cả cuốn sách có thể ra đời từ chỉ một mệnh đề đó và đương nhiên, người đọc sẽ bị thuyết phục bởi chất chồng những nghiên cứu tình huống và số liệu thực tế mà nhà nghiên cứu đưa ra. Tuy vậy, cả nhà nghiên cứu và người đọc đều quên một điều: Đào tạo nguồn nhân lực và thành công có mối quan hệ tương quan chứ không hẳn là nhân quả của nhau.

 

Đúng là đào tạo nguồn nhân lực mạnh có thể sẽ khiến một công ty có nền tảng tốt hơn để phát triển nhưng cũng có thể nhờ công ty phát triển nên mới có tiền nhiều để đào tạo nguồn nhân lực. Hai yếu tố này tương quan với nhau theo kiểu con gà quả trứng, rất khó để minh định xem cái gì tác động tạo ra cái gì. Vội vã kết luận rằng đào tạo nguồn nhân lực là chìa khóa của thành công là một sự nông nổi.

 

Còn hơn thế, nguồn nhân lực chỉ là một yếu tố trong vô vàn yếu tố có khả năng tác động tới hiệu quả công ty. Rosenzweig đưa ra những ví dụ từ nghiên cứu của các đồng nghiệp. Người cho rằng định hướng thị trường đóng góp 25% thành công của công ty, kẻ tuyên bố trách nhiêm xã hội tập thể (CRS) đóng góp tới 40% hiệu quả công ty. Một nghiên cứu khác thì đương nhiên kết luận quản trị nguồn nhân lực góp 5% trong tăng trưởng doanh thu và vai trò của giám đốc góp 15%. Cộng gộp lại thì có lẽ chỉ 4 yếu tố đó đã chiếm mất 85%.

 

Thế còn vô thiên lủng những khía cạnh khác từ: văn hóa công ty, chiến lược cạnh tranh, năng lực tài chính…. thì sẽ đóng góp bao nhiêu phần trăm nữa??? Chỉ một ví dụ đó, Rosenzweig đã cho thấy tính phiến diện của các nghiên cứu, mỗi nghiên cứu chỉ nhìn nhận một yếu tố trong khi thực chất các yếu tố đan xen vào nhau tới mức không thể xác minh rõ ràng chúng tác động tới nhau và tới kết quả chung như thế nào.

 

Tác giả gọi đó là ảo tưởng bởi những giải thích phiến diện. Mỗi nhà nghiên cứu như một ông thầy bói sờ một con voi và vội vã tuyên bố phát minh của mình. Ngay cả khi mỗi nghiên cứu đơn lẻ được tập hợp thành một bản thiết kế tổng thể thì cũng vẫn còn quá nhiều yếu tố bị bỏ sót. Thực hiện theo những thiết kế đó không bao giờ đảm bảo thành công.

 

Chuyện thành công hay chuyện cổ tích?

 

Rosenzweig dẫn lại một nghiên cứu của Michael Porter. Giáo sư chiến lược của Harvard đã nghiên cứu hàng ngàn công ty từ năm 1984 đến 1994 và kết luận rằng những yếu tố riêng biệt nội bộ đó chỉ đóng góp có… 32% cho hoạt động chung. Thế thì 68% còn lại thuộc về cái gì? Nó thuộc về những yếu tố bên ngoài từ bản chất của ngành kinh doanh, quan hệ hợp tác, may mắn và thậm chí là những yếu tố… chưa biết.

 

Trong môi trường kinh doanh bất định, liên tục bị tác động bởi những yếu tố bên ngoài như đối thủ cạnh tranh, sự thay đổi công nghệ, chính sách vĩ mô… việc vẽ ra một sơ đồ đi tới thành công là một ảo tưởng lớn. Và ngay cả việc nghĩ rằng sẽ có được những công ty thành công vĩ đại và trường tồn trong thế giới kinh doanh này cũng là một ảo tưởng nốt.

 

Tất cả những điều đó chỉ là những câu chuyện cổ tích lấp lánh ánh hào quang nơi có một chàng hoàng tử tức giám đốc nào đó “biết cách nắm giữ những giá trị quan trọng, vạch ra một tầm nhìn tươi sáng, quan tâm tới nhân viên, tập trung vào khách hàng và phấn đấu cho sự hoàn hảo…”.  

 

Rosenzweig nói rằng ông đánh giá cao những giá trị và lý tưởng đó trong các cuốn sách quản trị nổi bật hiện nay. Đi theo những con đường đó không có gì xấu cả, nếu không muốn nói rằng tốt. Nhưng sẽ không có gì đảm bảo rằng đó là con đường dẫn câu chuyện tới kết thúc có hậu. Chàng hoàng tử có tìm thấy công chúa của mình hay không còn phụ thuộc vào nhiều điều khác.

Chúng ta phi lý trí như thế nào?

Tháng Tư 11, 2009

Chúng ta phi lý trí như thế nào?

 

Theo quan niệm thông thường, con người nói chung luôn hành động theo lý trí của mình trừ những người “mất trí”. Thế nhưng trong cuốn sách bestseller trên toàn thế giới Predictably Irrational (Tính phi lý trí có thể dự đoán được), Dan Ariely, giáo sư kinh tế học hành vi của Học viên công nghệ Massachusetts MIT, đã thực hiện nhiều thí nghiệm đặc biệt để chứng minh rằng: trong rất rất nhiều tình huống, con người không chỉ phi lý trí mà còn phi lý trí có hệ thống.

 

Bạn sẵn sàng rút 2000 đồng cho một người ăn mày nghèo khổ trên đường. Nhưng cũng chính bạn lại cò kè từng 2000 bạc với bà đồng nát khi bán mớ báo cũ trong nhà.

 

Bạn sẵn sàng bỏ ra 10 triệu để chụp bộ ảnh cưới thật đẹp mà chỉ xem một vài lần rồi cất vào tủ. Nhưng chắc chắn bạn sẽ rất cân nhắc và suy tính cẩn thận khi quyết định mua một chiếc máy ảnh với giá 10 triệu trong khi bạn có thể dùng nó nhiều năm liền.

 

Bạn sẵn sàng đi cả chục cây số từ nhà bạn ở Cầu Giấy tới tận Hồ Gươm để mua một cuốn sách giảm giá 20.000đ. Nhưng chắc chắn bạn không mất công như vậy nếu biết rằng có một chiếc máy giặt giảm giá 20.000 đồng ở Hồ Gươm so với giá bán ở cửa hàng gần nhà bạn.

 

Bạn sẵn sàng giúp một cô gái lắp lại xích của chiếc xe đạp nếu cô ấy ngỏ ý nhờ bạn. Nhưng nếu cô ta đưa cho bạn 10.000đ để bạn làm điều đó thì chắc chắn bạn đã bỏ đi.

 

Bạn cảm thấy một món ăn ngon hơn khi có người khác bỗng khen rằng ngon nhỉ (cho dù có khi món ăn đó cũng không ngon đến vậy). Bạn cảm thấy mình nhỏ bé hơn, khúm núm hơn khi có dịp nói chuyện với một người nổi tiếng cho dù có khi anh ta cũng chẳng hơn gì bạn xét về cả hình thức lẫn trí tuệ.

 

Nhưng không chỉ bạn phi lý, tất cả chúng ta đều luôn phi lý. Và không chỉ trong chuyện tình cảm chúng ta phi lý, mọi quyết định trong mọi lĩnh vực chúng ta đều phi lý. Và không chỉ một vài lần phi lý, chúng ta liên tục phi lý, phi lý có hệ thống, phi lý có thể dự đoán được.

 

Các doanh nhân lắm tiền nhiều của vẫn mua những bức họa chỉ đáng vài triệu với giá vài chục thậm chí vài trăm triệu chỉ để “có” nó. Những nhà đầu tư vẫn mua các cổ phiếu của những công ty “phọt phẹt” với cái giá cao ngất trời chỉ vì những người khác cũng đang làm thế, trong khi giá của nó chỉ vài tháng trước ở mức thấp không tin nổi thì chẳng ai đoái hoài. Nhiều người bệnh đã cảm thấy đỡ mặc dù bác sỹ chỉ cho họ uống thuốc giả vờ hoặc phẫu thuật giả vờ để trấn an tâm lý. Con người nhìn chung vẫn phi lý trí một cách dễ đoán định như vậy.

 

Nhà kinh tế học hành vi của đại học MIT đã chỉ ra điều đó trong cuốn sách mới của ông: Predictably Irrational (từ nay dịch tắt là Phi lý trí). Được xuất bản ở Mỹ đầu năm 2008, cho tới nay, cuốn sách vẫn nằm trong danh sách bán chạy nhất trên trang mạng amazon.com.

 

Trong Phi lý trí, Dan Ariely đã tiến hành nhiều khảo sát hành vi kỳ lạ để chứng minh cho các quan điểm của mình. Ông cho rằng sở dĩ chúng ta luôn phi lý trí bởi một số các tác động nhất định như: quy luật tương đối, quy tắc xã hội, sự hưng phấn… Mỗi chương trong cuốn sách, tác giả dành để mô tả một tác động như thế bằng nhiều thí nghiệm khác nhau.

 

Hiệu ứng vật làm “nền”

 

Một thí nghiệm tiêu biểu mà Ariely đã đưa ngay vào đầu cuốn sách của mình là “chiêu thức” tạp chí The Economist đã dùng để Marketing cho sản phẩm của họ. Họ đưa ra báo giá cho sản phẩm của mình như sau:

1.        Đặt tạp chí điện tử giá 59 đô-la

2.        Đặt tạp chí in giá 125 đô-la

3.        Đặt cả tạp chí in và tạp chí điện tử giá 125 đô-la

Nhìn vào báo giá trên thấy rõ ràng sẽ không ai phi lý đến nỗi chọn phương án thứ 2, phương án này gần như chỉ đưa vào để “làm nền”. Tác giả kiểm chứng bằng cách đưa ra ba lựa chọn này cho 100 sinh viên ở trường Quản lý Kinh doanh Sloan của Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), có 16 sinh viên đã chọn lựa phương án số 1 và 84 sinh viên chọn phương án số 3, đương nhiên không ai chọn phương án số 2.

Tác giả thử bỏ phương án “làm nền” số 2 và thử nghiệm với 100 sinh viên khác. Kết quả ngược lại hoàn toàn. “Lần này, 68 sinh viên chọn đặt tạp chí điện tử với giá 59 đô-la, tăng từ 16 sinh viên trước đó.  Chỉ có 32 sinh viên chọn đặt cả tạp chí điện tử và tạp chí in với giá 125 đô-la, giảm từ con số 84 trước đó.”

Với chủ một phương án “làm nền” được đưa vào, quyết định của chúng ta đã thay đổi hoàn toàn. Phương án làm nền số 2 đã đẩy sự chú ý của chúng ta hướng tới phương án số 3 và cho chúng ta có cảm giác rằng phương án đó rẻ hơn cả. Thực chất thì không phải vậy và trong khoảng khắc lựa chọn đó, chúng ta đã trở nên phi lý trí. Hiệu ứng “làm nền” là “tác nhân bí mật trong nhiều quyết định hơn chúng ta tưởng tượng.”

Hiệu ứng mỏ neo

Một câu chuyện khác rất đặc sắc được Ariely đưa vào trong cuốn sách là chuyện về “những viên ngọc trai đen”. Năm 1973, nhà buôn ngọc trai người Mỹ Assael gặp một chàng trai người Pháp, chàng trai này sở hữu một đảo san hô ở đó có loài ngọc trai vỏ đen. Vỏ đen của những con trai này gợi cho nhà buôn Assael ý tưởng về những con ngọc trai đen.

Hai doanh nhân này nhanh chóng kết hợp với nhau để “thu hoạch ngọc trai đen và bán cho toàn thế giới”. Nhưng mọi nỗ lực tiếp thị đều thất bại bởi người ta không quan tâm tới loại ngọc trai này. Tuy nhiên, thay vì vứt đi hoặc bán giá rẻ, Assael đã khôn ngoan mang chúng tới nhờ trưng bày tại cửa hàng danh tiếng của bạn ông, nhà buôn đá quý huyền thoại Harry Winston. Tất nhiên, những viên ngọc trai đen được gắn với một mức giá cao đến kinh ngạc. Assael còn đăng loạt bài dài quảng cáo về sự quý hiếm của ngọc trai đen Tahiti trên nhiều tạp chí với hình ảnh những chuỗi ngọc trai đen bên cạnh kim cương, đá hồng ngọc và ngọc lục bảo.

Ngọc trai đen từ chỗ bán chẳng ai mua ở thành cơn sốt ở Manhattan dù được bán với giá cắt cổ. Nguyên nhân lại chính là mức giá cắt cổ đó và cách thức quảng bá khôn ngoan của Assael. Assael đã tạo ra một ấn tượng mạnh trong tâm trí mọi người là ngọc trai đen là thứ bảo vật đắt tiền, quý hiếm, sang trọng và khan hiếm.

Giả sử ông thực hiện chiến lược bán tốc bán tháo số ngọc trai ấy với giá rẻ thì chắc chắn đã rất ít người mua, thậm chí có lẽ ngọc trai đen cũng không có được vị thế siêu đẳng cấp như bây giờ. Mức giá cắt cổ đã tạo ra một ý niệm ban đầu trong xã hội về sự quý hiếm của ngọc trai đen. Ariely gọi đó là “cố kết tuỳ ý” hay một chiếc mỏ neo ban đầu, chiếc mỏ neo đó có tác động lâu dài đối với việc chúng ta sẵn sàng mua ngọc trai với mức giá tương tự và cao hơn trong tương lai.

Không chỉ với ngọc trai đen, chúng ta luôn tự “neo mình” vào mức giá đầu tiên khi quyết định mua đủ loại hàng hóa. Chúng đắt hay rẻ chỉ là cảm nhận của chúng ta trên tương quan so sánh với chiếc mỏ neo đã khắc sâu trong não, chứ không phải lúc nào cũng dựa trên tính toán duy lý của chúng ta về giá trị sử dụng thực. Vô số hàng hóa được gắn lên đó một thương hiệu đẳng cấp và bán với giá “trên trời”. Chúng ta không chỉ mua hàng hóa, chúng ta đã mua thương hiệu; chúng ta không quyết định mua hàng trên cơ sở giá cả hợp lý mà đã để sự phi lý của giá cả tác động tới quyết định của mình.

Đi xa hơn thế, giáo sư MIT Ariely còn tự hỏi: “Có phải cuộc sống mà chúng ta đang tạo dựng phần lớn chỉ là sản phẩm của sự cố kết tùy ý? Liệu đó có phải là cách chúng ta lựa chọn sự nghiệp, người bạn đời, quần áo và cách chúng ta tạo kiểu tóc cho mình không? Đó có phải là những quyết định thông minh hay không? Hay chúng chỉ là những dấu ấn đầu tiên có phần ngẫu nhiên và lộn xộn?”

Đó là những câu hỏi đáng để suy nghĩ, mỗi chúng ta cần xem lại những mỏ neo của cuộc đời mình để thấy chúng ta đã phi lý như thế nào trong vô số quyết định từ nhỏ nhặt nhất tới trọng đại nhất trên con đường đã qua. Phi lý trí của Ariely gợi mở, khuyến khích chúng ta nhìn nhận lại tất cả những quyết định đó, rút ra bài học từ những sai lầm trong hành vi của chính mình và những người khác.

“Chúng ta thường nghĩ mình đang ngồi ở vị trí người lái, với sự kiểm soát đối với những quyết định chúng ta đưa ra và hướng rẽ cuộc đời chúng ta lựa chọn; nhưng rất tiếc, nhận thức này liên quan nhiều tới mong muốn của chúng ta – với việc chúng ta muốn nhìn nhận bản thân ra sao – hơn là với thực tế.” Ariely đã viết như vậy ở phần cuối cùng của cuốn sách. Nếu như chúng ta luôn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc, luôn suy nghĩ cứng nhắc theo một khuôn mẫu, thì chúng ta sẽ vẫn tiếp tục phi lý trí một cách có hệ thống, sẽ tiếp tục sai lầm và sẽ “chỉ là một con tốt trong một trò chơi mà hầu như chúng ta không thể hiểu cách đi của nó…”

Khánh Duy