Việt Nam khẩn trương triển khai Gói kích thích kinh tế
Việt Nam đang thực hiện một gói kích thích kinh tế đầy hứa hẹn với tốc độ khá khẩn trương.
Các bộ phận trong gói kích thích kinh tế của Việt Nam đang trở nên rõ ràng hơn trong một vài tuần trở lại đây và đang có vẻ tạo được ảnh hưởng. Tốc độ khẩn trương của gói kích thích được công bố vào đầu năm 2009, cho thấy các nhà làm chính sách ở Việt Nam nhận thức rõ sự khẩn thiết phải giảm nhẹ tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới nền kinh tế nội địa. Tuy nhiên, cũng có nhiều mối nghi ngờ xung quanh hiệu quả của chương trình kích thích cũng như hậu quả tiềm tàng của nó đối với ngân sách quốc gia.
Một trong những thành tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hỗ trợ lãi suất 4% cho những khoản vay ngắn hạn, gói này đang được khối doanh nghiệp rất háo hức đón nhận. Mục tiêu của gói kích thích này là giúp giảm lạm phát, hỗ trợ các công ty trong việc duy trì khả năng sản xuất và giữ công ăn việc làm. Tuy nhiên, quy mô của việc cho vay theo chương trình này cho thấy nó được sử dụng chủ yếu để các doanh nghiệp đảo nợ. Tất cả các công ty trừ những đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực được coi là “tiêu cực” (như môi giới chứng khoán, nhập khẩu hàng tiêu dùng và đầu tư bất động sản) đều có quyền được tiếp cận gói hỗ trợ này. Tất cả các ngân hàng thương mại và công ty tài chính đều có trách nghiệm cung cấp các khoản vay ngắn hạn cho doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi và đương nhiên sẽ nhận được khoản bù lãi suất từ Ngân hàng Nhà nước (SBV).
Cho đến giữa tháng 4, khoảng 220 nghìn tỉ đồng tức khoảng 12,4 tỉ đô la Mỹ tiền vay mới đã được giải ngân theo chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất này. SBV dự tính con số này sẽ tăng lên tới 420 nghìn tỉ vào cuối năm 2009 (khi chương trình hỗ trợ lãi suất kết thúc). Các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước là những đơn vị năng động nhất trong việc cung cấp các khoản vay này còn chi nhánh các ngân hàng nước ngoài ít tích cực hơn cả. Khoảng 60 % khoản vay đã được cung cấp cho các công ty tư nhân, phần còn lại chẩy vào khối doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã.
Một thành tố khác trong chương trình kích thích kinh tế của chính phủ là chương trình bảo đảm tín dụng mới để hỗ trợ ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. Việt Nam đã từng lưỡng lự khi triển khai những quỹ đảm bảo tín dụng trong quá khứ, chủ yếu là ở cấp tỉnh, với thành công hết sức hạn chế. Chương trình mới này là ở cấp độ quốc gia. Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) được uỷ quyền là đơn vị cấp vốn duy nhất. Khác với thường lệ, VDB có thể đảm bảo 100% khoản vay, cho cả khoản vay đôla Mỹ lẫn tiền đồng. Những doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn phải có ít hơn 500 nhân viên, vốn đăng ký ít hơn 20 tỉ đồng và đảm bảo không có những khoản nợ ngân hàng hoặc nợ thuế quá hạn. Khác với chương trình hỗ trợ lãi suất, VDB có quyền quyết định công ty nào sẽ nhận được khoản đảm bảo.
Thông báo mới đây của chính phủ vào 18 tháng 4 cho biết có hàng loạt những biện pháp kích thích khác nhắm vào khu vực kinh tế nông nghiệp, khu vực bị tổn thương nặng nề nhất bởi suy thoái toàn cầu. Chính sách mới bao gồm các khoản vay phi lãi suất để mua thiết bị nông nghiệp và vay hỗ trợ lãi suất cho phân bón và các đầu vào cho nông nghiệp khác. Khu vực nông nghiệp của Việt Nam tạo công ăn việc làm cho 2 phần 3 dân số và góp phần khá lớn vào xuất khẩu.
Những quan ngại về ngân sách
Mặc dầu việc áp dụng nhanh chóng gói kích thích kinh tế này có tác động khích lệ lớn, tuy nhiên, cách tiếp cận mạnh mẽ của chính phủ đã làm dấy lên những quan ngại về ảnh hưởng của nó lên nền tài chính công. Ngân sách cuộc gia đã bị đặt dưới áp lực nặng nề bởi sự sụt giảm nguồn thu từ thuế. Trong những năm gần đây, nguồn thu từ dầu thô luôn đóng vai trò quan trọng đối với chính phủ. Nhưng với việc giá dầu thế giới giảm mạnh từ điểm đỉnh năm 2008, nguồn thu của chính phủ sẽ bị giảm mạnh, ảnh hưởng rõ rệt tới những kế hoạch chi tiêu.
Trong một nỗ lực tăng ngân quỹ cho những dự án thuộc gói kích thích, chính phủ gần đây bắt đầu phát hành trái phiếu đôla Mỹ, với mục tiêu phát được khoảng 1 tỉ đô la trái phiếu với nhiều kỳ hạn khác nhau trong năm 2009. Tuy nhiên, những nỗ lực này có vẻ như không thành công bởi nhà đầu tư mong muốn một lợi nhuận cao hơn những gì chính phủ sẵn sàng trả.
Viện tới các nhà tài trợ
Nhu cầu ngày càng tăng để đảm bảo những khoản chi thêm đã khiến chính phủ phải viện đến các nhà tài trợ quốc tế một cách quyết liệt và trách nhiệm hơn, tuỳ thuộc vào từng đối tác khác nhau. Chính phủ Nhật bản đã nối lại viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam, sau khi công an bắt giữ ít nhất hai quan chức Việt Nam bị buộc tội đã ăn hối lộ trong một dự án xây dựng gần Thành phố Hồ Chí Minh.
Viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh đầu tư trực tiếp nước ngoài và kim ngạch xuất khẩu đều giảm. Các đối tác phát triển của Việt nam đang có lợi thế trong việc thúc đẩy Việt Nam cải cách kinh tế hơn so với những năm gần đây, khi Việt Nam còn nhận được những khoản đầu tư khổng lồ và mong muốn cải cách của các nhà hoạch định chính sách có vẻ như xẹp xuống. Tuy nhiên, ngay cả khi thực trạng này không xảy ra thì chính phủ cũng sẽ phải nỗ lực xoa dịu sự thất vọng của nhà tài trợ, do tỉ lệ giải ngân vốn ODA chậm bởi sự thờ ơ của hệ thống hành chính cũng như năng lực yếu kém của một số cơ quan nhà nước.
Ở thời điểm hiện tại, việc giải ngân là rất cần thiết để đẩy mạnh nền kinh tế nội địa đang yếu. Vì vậy, nỗ lực loại bỏ nút cổ chai đang kìm hãm việc giải ngân vốn ODA hiển nhiên phải là một vấn đề cấp thiết.