Archive for Tháng Năm 2009

Có hay không “thần dược” cho tăng trưởng kinh tế

Tháng Năm 14, 2009

 Trong cuốn “Truy tìm căn nguyên tăng trưởng”, tác giả William Easterly đã tự trao cho mình sự mệnh rà soát lại hành trình đi tìm thần dược tăng trưởng kinh tế của các nhà kinh tế học. Nhiều kết luận hữu ích đã được khai mở từ hành trình đó.

 4 năm trước, Việt Nam xôn xao chuyện cơ hội của Thánh Gióng, làm thế nào tập hợp sức mạnh dân tộc để đẩy tốc nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm biến Việt Nam thành cường quốc. Giờ đây, không thấy ai nói tới những chuyện “thần kỳ” như vậy nữa.

 Sự thực là sự thần kỳ cũng đã diễn ra ở nhiều quốc gia Đông Á. Những vùng đất xưa là cánh đồng lúa, khu ổ chuột chỉ sau 15, 20 năm phát triển bỗng trở thành những khu cao ốc chọc trời như khu Phố Đông ở Thượng Hải. Tuy nhiên, điều tương tự đã không diễn ra ở đa số các quốc gia đang phát triển ở nhiều châu lục khác.

 Việt Nam cũng được liệt vào danh sách các quốc gia có tốc độ tăng trưởng khá cao sau hơn 20 năm đổi mới. Nhưng chất lượng, chiều sâu và độ bền vững của tăng trưởng lại bị nghi ngờ. Sự phát triển dựa vào tăng vốn đầu tư và lao động giản đơn hơn là tăng năng suất nhờ cải tiến công nghệ.

 Để tăng trưởng với số lượng và chất lượng tốt hơn, vẫn nghe nhiều quan chức, học giả lên tiếng đại loại như: chúng ta cần sử dụng hiệu quả hơn nữa viện trợ phát triển chính thức ODA, chúng ta phải thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài FDI, chúng ta nhất định phải phát triển nền giáo dục, chúng ta nhất thiết phải coi đầu tư vào khoa học công nghệ là ưu tiên hàng đầu…

 Rất nhiều “cần”, “phải”, “nhất thiết”, “nhất định”. Rất nhiều “mệnh lệnh” đã được đưa ra nhưng vốn ODA vẫn bị xà xẻo, FDI vẫn chậm giải ngân, giáo dục và công nghệ vẫn chậm được cải thiện. Mệnh lệnh, hô hào, khẩu hiệu càng nhiều thì hiệu quả càng ít, xưa nay vẫn vậy…

 Câu chuyện trên không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà ở rất nhiều quốc gia khác. Các kế hoạch, chính sách, khuyến nghị phát triển… hoặc không được thực thi, hoặc được thực thi thì cũng không mang lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn.

 Tại sao lại như vậy? Nhà kinh tế học William Easterly trả lời trong cuốn “Truy tìm căn nguyên tăng trưởng”.

 Con người hành động vì động cơ

 William là từng là chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) về viện trợ và phát triển cho các nước thế giới thứ 3. Hơn 15 năm làm việc ở WB, ông có điều kiện khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố vẫn được coi là “thần dược” cho tăng trưởng kinh tế như: viện trợ, đầu tư, giáo dục, giảm dân số, xóa nợ…

 Kết quả khảo sát của William Easterly khá bất ngờ: các thần dược trên không hoàn toàn có mối tương quan tỉ lệ thuận với tăng trưởng. Ở rất nhiều quốc gia, các yếu tố trên thì có nhưng tăng trưởng thì không.  

 William lý giải thực tế trên bằng một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế học: Con người ai cũng hành động vì động cơ.

 Để cho dễ hiểu, hãy thử hình dung trong một doanh nghiệp nhà nước có một ông giám đốc lo cho việc công thì ít mà tìm cách tư túi thì nhiều. Sử dụng vốn nhà nước và lại ít bị kiểm soát, ông này không có động cơ phải kinh doanh hiệu quả nên sẽ mặc sức lãng phí, tham nhũng. Nhân viên công ty cũng dễ có xu hướng hành động theo kiểu “biến tài nguyên công ty thành tài sản cá nhân”.

Trong tình huống này, nhà nước tiếp tục rót thêm tiền để công ty đầu tư vào máy móc, thiết bị cũng không mang lại hiệu quả vì đơn giản, toàn bộ công ty không có động cơ để kinh doanh hiệu quả. Có tìm cách giáo dục đào tạo nhân viên cũng chẳng ích gì bởi nhân viên không có động cơ phải học để nâng cao trình độ chuyên môn. Nếu mang phong bì đến nhà sếp dễ được đề bạt hơn có năng lực thật thì không ai cảm thấy được khuyến khích phải phát triển năng lực cả.

Công ty vay ngân hàng quá nhiều tới mức không có khả năng chi trả, nhà nước tìm cách xóa nợ hay cho vay lãi suất thấp để công ty có điều kiện vực lại. Nhưng các giải pháp trên cũng chỉ mang tính tình thế, công ty thiếu động cơ để phát triển lại càng được thể, tiếp tục vay vốn ưu đãi để thực hiện những dự án hiệu quả thấp, thất thoát cao.

Tóm lại, mọi nỗ lực đầu tư, viện trợ, xóa nợ, giáo dục mà nhà nước ưu đãi cho công ty trên đều vô nghĩa. Các thần dược trên không thể thúc đẩy tăng trưởng khi mà bản thân công ty và những người lãnh đạo vô trách nhiệm của nó không có động lực tự nhân phải tăng trưởng.

Điều tương tự cũng diễn ra ở cấp độ quốc gia với một chính phủ vô trách nhiệm, mọi thần dược giúp các nước này phát triển cũng “như muối bỏ bể”. William Easterly lý giải: “Tăng thêm máy móc sẽ trở thành vô ích khi thiếu động lực phát triển. Có thể máy móc sẽ tạo ra những sản phẩm không ai mong muốn hoặc máy móc thì có nhưng những yếu tố sản xuất đầu vào thì lại không” hoặc “nếu không có động cơ đề đầu tư cho tương lai thì việc mở rộng giáo dục chẳng còn mấy giá trị. Cho dù bạn bị buộc phải đến trường thì điều đó cũng không làm thay đổi động cơ để bạn đầu tư vào tương lai. Ở một đất nước mà hoạt động duy nhất đem lại lợi nhuận là vận động hành lang để tìm kiếm ân huệ thì tạo ra những lao động có tay nghề cao không phải là chìa khóa của thành công.”

Một chính phủ không bị kiểm soát và cân bằng bởi các lực lượng khác trong xã hội sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng vô trách nhiệm. Chính phủ đó có thể bóp chết tăng trưởng bằng cách dễ dàng nhất là triệt tiêu, kìm hãm động cơ. William chỉ ra trong cuốn sách nhiều dạng thức qua đó chính phủ trực tiếp hay gián tiếp kìm hãm động cơ của xã hội từ tham nhũng, lạm phát, thâm hụt ngân sách tới duy trì tỉ giá chợ đen cao… Khi đó, các nỗ lực phát triển đều dậm chân tại chỗ.

Có hay không có “thần dược”?

Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986. Đó có thể coi là cuộc giải phóng động cơ lớn lao. Chấp nhận quyền tự do sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh đã khiến cho mỗi cá nhân tìm thấy động cơ làm giàu, động cơ phát triển. Mức tăng trưởng khá cao trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua là kết quả của cuộc giải phóng động cơ đó.

Dù vậy, giải phóng động cơ là cần thiết nhưng chưa đủ. Còn cần làm nhiều hơn thế để biến những khu ổ chuột thành cao ốc. Ngay cả khi không bị kìm hãm bởi chính phủ thì cũng không có gì đảm bảo rằng những người dân ở các quốc gia nghèo có được động lực và khuyến khích cần thiết để vươn lên mạnh mẽ hơn. Họ vẫn có xu hướng quẩn quanh trong vòng tròn tiêu cực của thiếu kỳ vọng, niềm tin và nỗ lực.

Việt Nam cũng đang ở ngưỡng loay hoay tìm một con đường phát triển khác với kiểu tăng trưởng theo chiều rộng như hiện nay. Nhiều học giả đã đề cập tới sự cần thiết của một cuộc đổi mới 2, thay đổi căn bản để quá trình phát triển có được bước ngoặt, chất lượng và bền vững hơn. Nhưng thực hiện điều đó trên tư tưởng nào? William Easterly đã rút ra được một số kết luận có giá trị.

Cuốn sách không đưa ra một công thức hay “thần dược” nào cụ thể, nhưng những người làm chính sách ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều gợi mở và khuyến nghị quan trọng cho quá trình đổi mới tiếp theo.

Khánh Duy

Nỗi ám ảnh Đại Suy Thoái

Tháng Năm 9, 2009

Cuộc khủng hoảng hiện nay thường được so sánh với cuộc Đại suy thoái 1929-1933. Tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng hai cuộc khủng hoảng không hoàn toàn giống nhau. Xin giới thiệu bài so sánh giữa hai cuộc khủng hoảng này của Robert Samuelson, biên tập viên nổi tiếng của hai tờ Newsweek và Washington Post.

Đại Suy thoái những năm 1930 là một sự kiện kinh tế nổi bật nhất của thế kỷ 20. Nó gần như là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ hai, tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát xít hình thành ở Đức. Cuộc Đại Suy thoái cũng khuyến khích định hình một hệ thống phúc lợi xã hội mới ở Mỹ để đối phó với nghèo khổ tràn lan. Ở khắp nơi, cuộc khủng hoảng làm mất niềm tin vào chủ nghĩa tư bản phi điều tiết. Cuộc khủng hoảng hiện tại càng làm cho người ta quan tâm nhiều hơn tới cuộc Đại suy thoái trong quá khứ, đó cũng là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, chúng ta không nên đẩy sự so sánh đi quá xa giới hạn của nó.

Cuộc Đại suy thoái tạo ra sự tàn phá đặc biệt nghiêm trọng. Như Liaquat Ahamed viết trong cuốn sách “Những chúa tể tài chính” của ông: “Trong suốt 3 năm khủng hoảng đó, GDP thực tế trong những nền kinh tế lớn đã giảm 25%, một phần tư nam giới trong độ tuổi lao động mất việc làm… Suy thoái kinh tế đã tạo ra sự khốn khó chưa từng thấy ở khắp nơi trên thế giới, từ những thảo nguyên bao la ở Canada tới những thành phố đông đúc chật chội ở Châu Á.”

Ahamed, nhà quản lý tài chính chuyên nghiệp, tác giả cuốn sách cho rằng có hai nguyên nhân chính tạo ra cuộc Đại suy thoái. Thứ nhất là việc tái phục hồi một cách thiếu định hướng chế độ bản vị vàng vào những năm 1920. Thứ hai là những món nợ chính phủ khổng lồ, bao gồm cả những món bồi thường chiến phí của Đức, hệ quả của chiến tranh thế giới thứ nhất. 

Câu chuyện mà Ahamed kể trong cuốn sách dựa trên những công trình nghiên cứu của các kinh tế gia danh tiếng như Milton Friedman, Anna Schwartz, Charles Kindleberger, Barry Eichengreen và Peter Temin. Nhưng Ahamed khác biệt ở chỗ ông chỉ ra những con người và lực lượng chính trị đã gây ra cuộc khủng hoảng. Cuốn sách của ông nhắc tới 4 nhân vật dính líu sâu vào những chính sách ngoan cố sai lầm trong kỷ nguyên đó. Đó là

Montagu Norman, thống đốc ngân hàng Anh Quốc; Benjamin Strong, người đứng đầu cơ quan dự trữ bang New York, Émile Moreau, giám đốc ngân hàng Pháp; và Hjalmar Schacht, giám đốc ngân hàng Reichbank của Đức. Quyết tâm tái lập chế độ bản vị vàng như một động thái cần thiết cho sự thịnh vượng toàn cầu đã chỉ tạo ra sự đổ vỡ.

Dưới chế độ bản vị vàng, tiền giấy được hậu thuẫn bởi dự trữ vàng. Nếu vàng đổ vào một quốc gia (thường dưới dạng thặng dư thương mại hoặc vay nước ngoài), tiền trong nền kinh tế và nguồn cung tín dụng đương nhiên sẽ tăng lên. Nếu vàng đổ ra ngoài, tiền và tín dụng cũng bị thu hẹp lại. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, các chính phủ Châu Âu đã cho ngưng chế độ bản vị vàng. Họ tài trợ cho chiến tranh bằng tiền giấy và các khoản đi vay từ Mỹ. Sở dĩ người ta có xu hướng thích hồi phục lại chế độ bản vị vàng là do muốn tạo cảm giác rằng tiền giấy đáng tin cậy.

Không may là cuộc chiến đã phá huỷ hệ thống đó theo những cách không thể sửa chữa được. Nước Anh, quốc gia chủ chốt thời đó, đã chỉ còn 7,5% lượng vàng dự trữ của toàn thế giới vào năm 1925. Hoa Kỳ và Pháp cùng nhau nắm giữ hơn nửa lượng vàng dự trữ của thế giới. Chiến tranh làm tăng lượng dự trữ của Mỹ. Khi Pháp trở lại chế độ bản vị vàng, tỉ giá của nó được định giá thấp để kích thích xuất khẩu và dự trữ vàng. Trong khi đó, khoản bồi thường chiến tranh mà Đức phải trả cho Anh và Pháp rất lớn, trong khi những quốc gia đó nợ Hoa Kỳ một khoản rất lớn. Hệ thống tài chính toàn cầu là hệ thống nợ nần lẫn nhau đến nỗi dễ “tan vỡ chỉ với một sức ép đầu tiên.” Ahamed viết như vậy.

Mọi việc bắt đầu khi Nước Mỹ tăng lãi suất vào năm 1928, khiến các quốc gia khác cũng phải tăng theo (không quốc gia nào muốn mất vàng bởi những nhà đầu tư chuyển tiền ra nước khác). Lãi suất tăng cao cuối cùng làm cho thị trường chứng khoán sụp tan tành. Các nền kinh tế trở nên yếu đi, các khoản nợ không thể trả được. Ngân hàng hoảng loạn. Tín dụng và sản lượng công nghiệp đều sụt giảm. Tỉ lệ thất nghiệp tăng. Suy yếu lại càng suy yếu như một cái vòng luẩn quẩn.

Đáng buồn là cuộc khủng khoảng hiện nay cũng có những điểm tương tự. Cũng như năm 1930, hệ thống tín dụng toàn cầu cũng lâm vào tình trạng sụp đổ. Cổ phiếu, trái phiếu và các ngân hàng đã liên hệ chặt chẽ với nhau. Mất mát ở một lĩnh vực sẽ ngay lập tức kéo lùi sự phát triển của các lĩnh vực khác. Theo ước tính của Viện tài chính quốc tế, số tiền chảy vào 28 nền kinh tế đang phát triển vào năm 2009 dự đoán sẽ giảm 80% so với năm 2007. Cũng như những năm 1920, sự bất hợp lý về tỉ giá đã bóp méo thương mại. Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc giờ đây cũng đang bị đánh giá thấp.

Tuy nhiên, có những khác biệt lớn giữa ngày đó so với bây giờ. Khác biệt lớn nhất là các chính phủ hiện nay không bị ràng buộc bởi chế độ bản vị vàng. Chính vì thế, họ dễ dàng nới lỏng tín dụng, hỗ trợ các định chế tài chính và tăng chi tiêu để ngăn chặn đà suy thoái kinh tế. Cục dự trữ liên bang và Quỹ tiền tệ quốc tế có vốn cho những quốc gia đang phát triển vay để bù đắp lại những mất mát tín dụng tư. Không có thù oán giữa các quốc gia trên trường quốc tế như sau chiến tranh thế giới thứ nhất, những thù oán đã ngăn cản sự hợp tác. Vào năm 1931, nước Pháp đã ngăn cản việc cứu Ngân hàng lớn nhất của Áo (Creditanstalt), sự sụp đổ của ngân hàng này đã châm ngòi cho một làn sóng hoảng loạn ở Châu Âu.

Khi các quốc gia loại bỏ chế độ bản vị vàng, Hoa Kỳ loại bỏ vào năm 1933, các nền kinh tế bắt đầu phục hồi. Một số chỉ số hiện tại đã chứng tỏ rằng cuộc khủng hoảng hiện nay đang có xu hướng giảm, Trung Quốc cũng có một số dấu hiệu của sự phục hồi. Những điều đó đã xoá bỏ những so sánh ảm đạm giữa cuộc khủng hoảng hiện nay với cuộc Đại suy thoái năm xưa. Nhưng nếu những dấu hiệu hồi phục trên sai, những kết luận ảm đạm hơn có khi lại trỗi dậy.

Những sai lầm của cuộc Đại suy thoái bắt nguồn từ những tư tưởng kinh tế chính thống thịnh hành thời đó, những tư tưởng đã bị những thực tế mới vượt qua. Những chính sách kinh tế của hiện tại cũng phản ánh những tư tưởng chính thống của ngày hôm nay. Nhưng sẽ ra sao nếu chúng cũng lại trở nên sai lầm bởi thế giới đang chuyển động theo những cách thức gần như rõ ràng là trở về quá khứ?